Giaùo duïc cuûa Ñöùc Phaät laø giaùc ngoä töï taùnh
Kinh Ñieån Phaät Thuyeát vieân maõn ñuùng nghóa laø hoïc taäp vaø chuyeân tu

daitangkinh.vn

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không
 

TẬP MỘT - B
 

Như vậy là tối thiểu có sáu hình thức khác nhau, chúng ta đang học loại nào, phải hiểu rõ điều này. Do Chương Gia Đại Sư chỉ tôi đường lối này, dạy tôi hãy học về Thích Ca Mâu Ni Phật, tôi cũng rất vâng lời, hết sức tôn kính thầy, vâng lời thầy chỉ dạy.

Sau đấy, không những thầy dạy tôi học theo Thích Ca Mâu Ni Phật, mà còn mong tôi hãy xuất gia, đi theo con đường của Thích Ca Mâu Ni Phật.

Tôi làm theo, chứng thực lời Cụ Phương đã nói: Học Phật là hưởng thụ tối cao trong đời người, thật là hạnh phúc sung sướng mỹ mãn.

Có thử thách hay chăng?

Thử thách hết sức nhiều, thử thách đều là khảo thí. Chúng ta học Phật, đối với người, đối với sự, đối với vật, phải vĩnh viễn giữ tấm lòng cảm ơn. Quý vị sẽ luôn gặp phải hủy báng, chướng ngại, thậm chí hãm hại, quý vị phải cảm ơn những người ấy.

Vì sao?

Họ đến khảo ta, ta đều có thể vượt qua, chẳng oán hận, chỉ cảm ơn.

Vì lẽ gì họ chướng ngại ta như thế?

Đại khái là do hai nguyên nhân: Một là trong đời quá khứ, có lẽ ta đã chướng ngại họ. Đấy là oan oan tương báo. Nay chúng ta hiểu rõ, giác ngộ, tiếp nhận quả báo này, hóa giải oan nghiệt ấy. Ta chẳng trả thù họ, mà cũng đừng nên oán hận họ.

Một nguyên nhân khác là từ xưa đến nay, đây là điều chẳng thể tránh khỏi. Bị đố kỵ, chướng ngại là do bản thân chúng ta cư xử chẳng cẩn thận, thái độ chẳng khiêm tốn, khiến kẻ khác sanh lòng ghen ghét. Đó là ta sai, chẳng phải kẻ ấy sai, chúng ta cũng phải cảm ơn kẻ ấy. Trong Phật Pháp, nơi đâu hữu duyên bèn đến đó, hữu duyên được gọi là thời tiết nhân duyên.

Cổ nhân Trung Quốc thường nói: Nhân vô thiên nhật hảo, hoa vô bách nhật hương. Người chẳng tốt đẹp ngàn ngày, hoa chẳng thơm trăm bữa. Người và người ở chung với nhau, có thể ở chung ba năm, quý vị bèn chán ngán, nẩy sanh vấn đề.

Chúng ta phải biết dè dặt, cẩn thận trong khởi tâm động niệm, lời lẽ, hành vi, phải lấy những lời chỉ dạy của Phật, Bồ Tát, Thánh Hiền làm tiêu chuẩn ứng xử cho chúng ta, nghiêm ngặt tuân thủ, chắc chắn sẽ có ích.

Đối với những kẻ thương tổn chúng ta, chúng ta dùng tâm tình báo ân để đối đãi, lâu ngày họ sẽ biết, biết rồi cũng sẽ hối cải, nhưng như thế nào?

Nói xin lỗi là vấn đề thể diện. Chúng ta biết điều ấy, trong tâm kẻ ấy chẳng còn oán hận chúng ta, hóa giải rồi. Quý vị nói xem chuyện này có vui sướng lắm hay không, là chuyện tốt đẹp như thế đó.

Bởi lẽ, trong thế gian hiện tại, oan oan tương báo quá nhiều, vì lẽ gì?

Quý vị đối xử với người khác, chẳng ban bố ân đức, khó tránh kết oán với người khác.

Nay vì sao con hiếu cháu hiền ít ỏi, quý vị ngẫm xem chính mình có bố thí ân đức đối với người ngoài hay chăng?

Bố thí ân đức mới có kẻ báo ân tìm đến. Bố thí tài vật mới có người tới trả nợ.

Luôn luôn toan chiếm phần tiện nghi hơn người, đó là gì?

Con cháu của quý vị là kẻ đến đòi nợ. Đâu đâu cũng ngạo nghễ, lấn áp người khác, như vậy là sẽ có kẻ tới báo oán. Phiền phức ở chỗ này. Chúng ta nhất định phải hiểu điều này, đều là tự làm, tự chịu.

Mọi người đều là người tốt, Tổ Tiên dạy chúng ta: Nhân tánh bổn thiện tánh con người vốn lành.

Đại thừa Phật Pháp dạy chúng ta: Tất cả chúng sanh vốn là Phật, chúng ta thấy người khác như thế nào?

Chúng ta phải thấy người khác, hết thảy chúng sanh đều là Bồ Tát, đều là Phật, thật đấy, chẳng giả đâu.

Vì sao Thiện Tài chứng đắc Phật Quả rốt ráo viên mãn trong một đời?

Xưa kia, tôi giảng Kinh Hoa Nghiêm, giảng Tứ Thập Hoa Nghiêm, cũng bỏ ra không ít thời gian. Đáng tiếc là khi ấy ngay cả máy thâu âm cũng chưa có.

Tôi giảng Kinh được một nửa bèn hiểu rõ, biết bí quyết thành tựu của Ngài chính là: Trong lòng Ngài, chúng sanh toàn là thiện tri thức, toàn là Phật, Bồ Tát, cho nên Ngài thành tựu.

Tôi quan sát cẩn thận, tìm ra thông tin này từ Kinh Điển: Thầy của Ngài là Văn Thù Bồ Tát. Ngài đắc căn bản trí nơi Văn Thù Bồ Tát, mà cũng là đắc thanh tịnh tâm, đại triệt đại ngộ.

Ngộ rồi khởi tu, khởi tu là gì?

Khởi tu là sống.

Văn Thù Bồ Tát bảo Ngài đi tham học, năm mươi ba lần tham học, tham học là gì?

Tiếp xúc các tầng lớp trong xã hội, hết thảy mọi người mà quý vị tiếp xúc từ sáng đến tối toàn là Phật, toàn là Bồ Tát, chỉ có một mình ta là phàm phu. Ngài mang tâm thái như vậy, áp dụng toàn bộ những điều đã học từ chỗ thầy vào cuộc sống, áp dụng trong công việc, áp dụng trong xử sự, đãi người, tiếp vật.

Khi thầy Phương giới thiệu Kinh Hoa Nghiêm, đã bảo tôi: Kinh Hoa Nghiêm có lý luận viên mãn, có phương pháp thiện xảo, cuối Kinh lại còn có biểu diễn. Năm mươi ba lần tham học là biểu diễn.

Quý vị thấy: Đem đạo lý và phương pháp áp dụng vào cuộc sống, công tác, vào xử sự, đối nhân xử thế cho quý vị thấy. Cụ nói bộ sách giáo khoa này, cụ quan niệm Kinh Hoa Nghiêm là Phật học khái luận bậc nhất trên thế giới, tìm chẳng ra loại tài liệu giảng dạy thứ hai nào tốt đẹp như thế.

Vì thế, vào tuổi xế chiều, Lão nhân gia dạy Triết Học Hoa Nghiêm cho chương trình tiến sĩ ở Đại Học Phụ Nhân, Đại Học của giáo hội Công Giáo đúng là thỏa thích.

Chúng tôi được thầy chỉ dạy, mới biết Phật Pháp thù thắng khôn sánh. Phật Pháp quả thật có thể giải quyết vấn đề của chính mình. Bản thân tôi có rất nhiều vấn đề, trong đời quá khứ chẳng tu phước báo. Số mạng có thật.

Quý vị đọc Liễu Phàm Tứ Huấn, thấy tiên sinh Liễu Phàm được Khổng tiên sinh đoán mạng, suốt hai mươi năm chẳng sai mảy may: Thu nhập hàng năm, thứ tự đỗ đạt, địa vị đẳng cấp mỗi năm đã định trước trong số mạng. 

Trong cuộc sống hằng ngày, tiên sinh Viên Liễu Phàm chuyện gì cũng chẳng nghĩ tới, cùng Thiền Sư Vân Cốc ngồi trong Thiền Đường suốt ba ngày ba đêm, chẳng khởi một niệm. Loại người này rất ít, Thiền Sư Vân Cốc rất kinh ngạc, ba ngày ba đêm chẳng khởi một niệm, công phu này khá lắm.

Liền hỏi ông ta: Ông tu như thế nào?

Ông ta liền đáp lời, cũng rất thật thà: Con chẳng có công phu gì. Số mạng đã được người khác đoán sẵn, khởi niệm vô ích, chẳng thà coi như xong, chẳng khởi niệm nữa.

Thiền Sư Vân Cốc cười, bảo: Ta ngỡ ông là Thánh Nhân, hóa ra ông vẫn là phàm phu.

Ông ta hỏi: Sao thầy nói vậy?

Sư bèn giải thích: Đây là một người thật sự hiểu mạng vận, chẳng khởi vọng tưởng. Quý vị tin vào số mạng, hãy xem Thiền Sư Vân Cốc dạy ông Viên phương pháp sửa đổi số mạng.

Số mạng của quý vị do đâu mà có?

Do các nghiệp nhân trong đời quá khứ tạo thành. Lúc tôi mới học Phật, Chương Gia Đại Sư dạy tôi. Ngài đã già, lớn hơn tôi ba mươi chín tuổi, khi ấy, tôi hai mươi sáu tuổi, Lão nhân gia đã sáu mươi lăm tuổi. Sư đã gặp nhiều người.

Theo Sư nhận định, con người tôi ngoại trừ có chút thông minh nhỏ nhặt, trong số mạng chẳng có của cải, chẳng có địa vị, là kẻ bần tiện, có số ăn mày.

Còn có một tí thiện căn, đây là điểm khó có: Biết tôn sư trọng đạo, hiếu thuận cha mẹ, thọ mạng chỉ được bốn mươi lăm tuổi, tôi tin tưởng lời Sư.

Vì thế, Ngài giúp tôi, dạy tôi tu ba điều: Tài bố thí, pháp bố thí, vô úy bố thí, dạy tôi những điều này để sửa đổi số mạng.

Tài bố thí thì tôi không có tiền, mỗi tháng bản thân chỉ có chút tiền lương, đời sống khá chật vật, tiền đâu để bố thí?

Ngài hỏi tôi: Có cắc nào hay không?

Một cắc cũng được.

Một đồng có được hay không?

Một đồng vẫn được. Anh hãy bố thí từ một cắc, một đồng, trước hết, phải có ý nguyện bố thí, có ý niệm ấy. Về sau, tôi thường đến Chùa Miếu mượn Kinh xem, chẳng có chi khác, Chùa Miếu có Kinh Sách, mua bên ngoài chẳng được.

Thấy nhà Chùa in Kinh Sách, bèn quyên góp một ít tiền, chúng ta bỏ ra năm mươi xu, hay một đồng đều được, làm từ chỗ này.

Phóng sanh thì lúc tôi mới học Phật bèn phóng sanh, in Kinh, đúng là càng thí càng nhiều, chẳng giả tí nào. Sau này, theo thầy Lý học Kinh Giáo, rồi đi giảng Kinh.

Giảng Kinh là pháp bố thí. Đại khái, tôi giảng Kinh mười một, mười hai năm, có lần gặp Cam Châu Hoạt Phật Kanjurwa Khutughtu, vị này đã khuất, cũng là học trò của Chương Gia Đại Sư, cũng có địa vị rất cao trong Phật Giáo theo truyền thống Tây Tạng.

Có một lần, Sư cho tôi biết: Pháp Sư Tịnh Không, thầy đến đây, tôi có lời muốn nói với thầy.

Tôi nói: Thưa Phật gia, chuyện gì thế?

Tôi và Sư rất thân thuộc.

Sư nói: Chúng tôi phê bình sau lưng thầy.

Tôi hỏi: Phê bình tôi điều gì?

Sư nói: Thầy là người rất thông minh, cũng là một người tốt, rất đáng tiếc mạng thầy rất khổ, đoản mạng.

Tôi đáp: Chuyện này có thể nói trước mặt mà. Tôi biết rất rõ, tôi đâu bận tâm chuyện này.

Sư nói: Mấy năm nay, thầy giảng Kinh công đức rất lớn, số mạng của thầy đã chuyển biến.

Tôi hỏi: Thật sao?

Thật đó. Thầy thọ mạng rất dài, phước báo rất lớn. Tôi cũng chẳng cầu phước báo, cũng chẳng cầu tuổi thọ, thật đấy. Sư nói với tôi chuyện này xong, năm sau bèn vãng sanh, tôi không ngờ Sư vãng sanh nhanh như vậy.

Vì thế, gặp được Phật Pháp, vận mạng mới chuyển biến rất lớn, mỗi một lần bị vùi dập là một lần được tiến triển với mức độ lớn, đồng học ở cạnh tôi đều đích thân thấy điều này.

Chúng ta học Phật chỉ có một sứ mạng: Mong cho chánh pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật tồn tại lâu dài, học đòi Thích Ca Mâu Ni Phật giúp hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ. Phá mê khai ngộ bằng giáo học.

Con người khổ nạn, xã hội gặp tai nạn là vì đâu?

Đều do chúng sanh mê hoặc, điên đảo, tạo tác nghiệp bất thiện mà cảm vời.

Làm thế nào để giúp chúng sanh, giúp xã hội hóa giải tai nạn?

Dùng ngay biện pháp quen thuộc của Thích Ca Mâu Ni Phật, giảng Kinh, dạy học. Bởi lẽ, người giảng Kinh dạy học càng đông, kẻ được giáo hóa càng nhiều, người giác ngộ càng lắm, nhiều vấn đề trong xã hội sẽ được giải quyết, cái gọi là thiên tai cũng dần dần bị hóa giải, chuyện này là thật, chẳng giả.

Tiến sĩ Giang Bổn Thắng làm thí nghiệm trên nước, mới đây đã triệu tập một hội nghị tại Đông Kinh, có mời tôi. Tôi viết một bài diễn giảng, giao cho cư sĩ Chung Mao Sâm thay tôi tham dự, báo cáo trong đại hội. Khoa học chứng minh ý niệm của chúng ta chẳng thể nghĩ bàn.

Bởi lẽ, theo giáo pháp đại thừa, vũ trụ do đâu mà có?

Vạn pháp do đâu mà có?

Ta do đâu mà có?

Đức Phật nói rất rõ ràng: Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến. Vì thế, chúng ta giải quyết vấn đề của chính mình, sẽ giải quyết vấn đề nơi hoàn cảnh.

Đối với thiên tai trong môi trường hiện thời, Phật Pháp đã dạy chúng ta một nguyên tắc chỉ đạo tối cao, tức là quý vị phải thật sự hiểu: Tướng do tâm sanh, cảnh chuyển theo tâm. Chỉ cần chuyển biến cái tâm. Giáo học của Phật Pháp không có gì khác, dạy bảo chúng ta hãy chuyển ác thành thiện, thiện, ác có tiêu chuẩn. Thập thiện nghiệp đạo là tiêu chuẩn trong nhà Phật.

Quý vị đừng coi thường mười điều này. Trong giáo pháp tiểu thừa, mười điều ấy được triển khai thành ba ngàn oai nghi.

Trong đại thừa Bồ Tát pháp, triển khai thành tám vạn bốn ngàn oai nghi, tức là mười điều này mở rộng thành tám vạn bốn ngàn điều, chẳng thể nghĩ bàn.

Do vậy, tu Thập thiện viên mãn thì tám vạn bốn ngàn điều quý vị đều thực hiện, quý vị sẽ thành Phật. Đừng coi thường một trăm mười ba điều trong cuốn Đệ Tử Quy của Nho Gia. Nếu triển khai thì chúng cũng thành tám vạn bốn ngàn điều, toàn bộ văn hóa truyền thống được thực hiện ngay trong đó.

Do vậy, Tứ Thư, Ngũ Kinh, mười ba Kinh, thậm chí Tứ Khố Toàn Thư đều chẳng tách rời những điều ấy. Mỗi một điều đều chẳng tách rời, đều giống với Thập thiện nghiệp đạo. Mỗi một bộ Kinh, mỗi một câu, mỗi một chữ trong Đại Tạng Kinh đều chẳng tách lìa Thập thiện nghiệp đạo, một tức hết thảy, hết thảy tức một.

Cũng vì hiện thời đúng là lúc tai nạn rất nhiều, cho nên tôi phát tâm tạm ngừng giảng Kinh Hoa Nghiêm từ một năm tới hai năm để lần này giảng bộ Kinh này.

Trong quá khứ, tôi đã giảng Kinh Vô Lượng Thọ mười lần, nhưng lần này, tôi chẳng giảng Kinh mà giảng chú giải, giảng chú giải của ai?

Giảng bản Chú Giải của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Hoàng lão cư sĩ với tôi là bạn bè, mà cụ cũng là thầy của tôi. Cụ có cùng vai vế với thầy tôi. Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam là học trò của Đại Sĩ Mai Quang Hy. Mai Đại Sĩ và Cụ Hạ Liên Cư là sư huynh, sư đệ, bạn bè hết sức thân thiết. Cụ Hoàng Niệm Tổ là cháu gọi cụ Mai Quang Hy bằng cậu, là học trò Cụ Hạ Liên Cư.

Do trước kia chưa từng gặp mặt, nhưng tôi từng nghe cụ Lý nhắc đến tên Cụ Hoàng, có chút ấn tượng như thế đối với Cụ Hoàng Niệm Tổ. Thuở ấy, năm 1986, tôi là hội trưởng của Hoa Phủ Phật Giáo Hội tại Washington, Mỹ Quốc.

Các đồng tu tới bảo tôi: Họ tính mời một vị Thượng Sư Mật Tông sang Mỹ hoằng pháp.

Khi đó, tôi nghe xong, không cho là đúng: Chúng ta là Tịnh Độ Tông, chớ nên dính dáng môn phái khác.

Tôi nói: Chúng ta thâm nhập một môn, trường thời huân tu.

Tôi hỏi họ: Vị Đại Đức Mật Tông ấy là ai thế?

Họ thưa: Hoàng Niệm Tổ!

Trong đầu tôi có ấn tượng về Hoàng Niệm Tổ, tôi nghĩ mãi mới ra, tôi hỏi: Có phải ông ta là cháu Cụ Mai Quang Hy hay chăng?

Họ đáp: Đúng vậy.

Tôi bảo: Hãy thỉnh ông ta sang. Thầy Lý đã nói đến vị này mấy lần, tôi tưởng Cụ là người lớp trước, đã tịch rồi, nào ngờ Cụ vẫn còn trong nhân gian, rất khó có. Những điều cụ giảng là chân truyền, không có vấn đề gì.

Vị này được đích thân Cụ Mai và Cụ Hạ uốn nắn, dạy dỗ, tôi nói: Vị Đại Đức này khó có, quý vị hãy thỉnh cụ đến đây. Thỉnh cụ đến như thế đó. Thỉnh đến rồi mới biết, Cụ Hoằng dương bản hội tập này trong nước, tôi hoằng dương tại hải ngoại. Cụ nghe nói xong, hai người chúng tôi hết sức cao hứng. Điều hết sức khó có là khi ấy, cụ vừa viết xong bản Chú Giải, in bằng ronéo, chữ in lờ mờ, chẳng rõ ràng.

Chúng ta biết: In thứ gì bằng ronéo, nhiều nhất là không hơn một trăm bản. In hơn một trăm bản, giấy sáp stencil sẽ chẳng thể dùng được nữa. Cho nên cụ mới phải dùng bản in như vậy.

Đương nhiên, bộ sách cụ mang sang Mỹ, nhất định là chọn bản in tương đối rõ ràng một chút để tặng cho tôi. Tôi đọc xong, hết sức hoan hỷ. Cụ mong tôi viết lời tựa, do vậy, lời tựa bộ chú giải ấy là do tôi viết.

Trước kia, tôi sang Bắc Kinh, sang vài lần, toàn là đến gặp cụ, vì gặp cụ mà sang đó. Mỗi một lần sang đó, chúng tôi đều có một khoảng thời gian rất dài để thảo luận các vấn đề Phật Pháp. Cụ dạy tôi rất nhiều.

Do vậy, chúng tôi là bạn bè thân thiết, mà cụ cũng là thầy tôi, tôi cũng cảm kích ân đức của cụ. Bản hội tập này của Cụ Hạ đâu phải là dễ có, phàm phu làm sao có thể làm được.

Các lần hội tập trong quá khứ, các bản hội tập của Vương Long Thư, Ngụy Mặc Thâm, hay tiết bản bản trích lục, phân chia thành chương đoạn của Bành Tế Thanh đều có vấn đề, vẫn chưa thể coi là bản tận thiện tận mỹ. Đọc bản này, nếu quý vị xem lời tựa rất dài của cư sĩ Mai Quang Hy, sẽ thấy cụ Mai viết hết sức rõ ràng.

Do vậy, ở Đài Trung, sau khi bản này truyền đến Đài Trung, thầy Lý đã giảng Kinh này một lượt. Khi ấy, Kinh chưa có chú giải, chính cụ Lý dùng bút lông viết lời mi chú kỹ càng, đầy đủ. Khi cụ giảng bộ Kinh này, tôi còn chưa đến Đài Trung, chưa được nghe, nhưng cụ đem bản mi chú này trao cho tôi, tôi có thể đọc hiểu. Dùng bản này, tôi cũng có thể giảng, có năng lực này.

Do vậy, khi đó, chúng tôi đã tính giảng bộ Kinh này, trình lên thầy. Thầy bảo chưa được, chưa đến lúc, chưa đến thời tiết nhân duyên.

Vì thế, các đồng tu ở Đài Bắc đã in Kinh xong, nhưng rốt cuộc đổi sang giảng Kinh Lăng Nghiêm. Tôi ở Đài Bắc, trước sau đã đem Kinh Lăng Nghiêm học được từ Lão nhân gia giảng bảy lần.

Do nguyên nhân gì?

Đố kỵ, chướng ngại. Tại Đài Loan, mọi người có thành kiến đối với Cụ Hạ, đối với thầy Lý cũng có thành kiến, nên thầy bảo tôi hãy tránh né. Đến khi Lão nhân gia vãng sanh, tôi ở Mỹ, nghĩ thầy đã cho tôi bản này, rất nhiều người chưa thấy bản này, tôi liền phát tâm in một vạn cuốn.

Năm sau, tức năm 1987, in xong xuôi, bèn cho lưu thông, tại ngoại quốc, các đồng học ở Mỹ thấy bản này hết sức thích thú, liền thỉnh tôi giảng giải. Vì thế, tôi giảng Kinh Vô Lượng Thọ lần đầu tiên tại Vancouver, Gia Nã Đại.

Lần thứ hai, tại thành phố San Francisco. Trước sau, giảng tất cả mười lần, Kinh mới được giảng giải, lưu thông như vậy. Lần này tôi mang theo nguyên bản Kinh này, tặng cho ông Hồ Tiểu Lâm làm kỷ niệm. Ông ta cũng thọ trì Kinh Vô Lượng Thọ, số lần đọc tụng rất nhiều.

Từ nay về sau, chúng ta phải vĩnh viễn lưu truyền Kinh Vô Lượng Thọ. Chúng ta cảm tạ ân đức hội tập của Cụ Hạ, cảm tạ cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nhọc lòng chú giải bộ Kinh này.

Vì thế, lần này, tôi phát tâm giảng bản chú giải của cụ, gọi là Diễn Nghĩa. Quý vị thấy Kinh Hoa Nghiêm có Diễn Nghĩa, đối với Kinh Di Đà, Liên Trì Đại Sư có tác phẩm Sớ Sao. Học trò của Liên Trì Đại Sư lại chú giải Sớ Sao gọi là Diễn Nghĩa. Đại khái, đối với diễn nghĩa, các vị có khái niệm sâu nhất, như là tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa.

Chúng ta dùng phương pháp này để cùng nhau học tập, học tập nhằm thâm nhập, thấu triệt, theo phương pháp giống như ông Hồ Tiểu Lâm học tập tác phẩm Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, từng câu, từng chữ chúng tôi đều giảng rõ ràng.

Trong những năm qua, chúng tôi gặp nhiều người thuộc giới học thuật, tôi tiếp xúc rất nhiều, đặc biệt là đối với sinh viên Đại Học hiện thời, cảm thấy họ không giống thuở trước.

Xưa kia, khi tôi dạy tại đại học, sinh viên kể ra cũng khá lắm. Khi lên lớp, chúng tôi đã không theo cách dạy thời cổ, mà là giảng giải, giảng hai tiếng đồng hồ, sinh viên thường rất yên lặng lắng nghe.

Trong nhà trường hiện thời, không thể làm như vậy được. Sức chú ý của học sinh trong nhà trường hiện thời đại khái chỉ có mười lăm phút. Sau mười lăm phút, họ sẽ không để tâm nữa.

Do vậy, tôi thường đem chuyện này hỏi các giáo sư: Quý vị dạy trong trường, dạy như thế nào?

Họ nói: Giảng bài mười lăm phút.

Sau đó thì sao?

Sau đó là nói chuyện phiếm, dùng phương pháp này cho qua thời gian. Chúng tôi thấy điều này hết sức khó chịu, cũng là do học sinh tánh khí hời hợt. Nói cách khác, đời chúng nó thiếu mục tiêu, thiếu phương hướng, mù quáng, hiện tượng này rất đau xót.

Bởi vậy, tôi nghĩ tới hai câu nói của Khổng Phu Tử, hôm nay tôi đặc biệt nêu ra hai câu này: Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ. Dùng hai câu nói này làm thái độ học vấn, rất hay.

Thuật nhi bất tác là gì?

Không sáng tạo, không phát minh. Phu Tử tự nói sở học, sở tu, sở giáo, sở truyền cả đời Ngài toàn là những thứ do Cổ Thánh Tiên Hiền đã nói, không có gì là của chính mình.

Chúng ta có tin được hay chăng?

Tôi học Phật nhiều năm như thế mới tin tưởng, đặc biệt là đối với những điều được nói trong Kinh Hoa Nghiêm và bộ Hoàn Nguyên Quán, vì sao?

Cổ Thánh Tiên Hiền đều kiến tánh, thật sự minh tâm kiến tánh.

Tôi từng hỏi Thầy Lý, tôi nói: Thưa thầy.

Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Trang có phải là Phật, Bồ Tát tái lai hay chăng?

Thầy mỉm cười, bảo tôi: Nói theo lý thì được, nhưng trên mặt sự thiếu chứng cứ.

Phẩm Phổ Môn nói: Nên dùng thân gì để đắc độ bèn hiện thân ấy, nhưng họ chẳng bộc lộ thân phận. Vì thế, chúng ta có thể nói theo lý thì thông suốt, họ đều là bậc đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh.

Kiến tánh sẽ viên mãn, quý vị chẳng thể thêm hay bớt chút nào, luôn là viên mãn. Người ấy chứng viên mãn, mà quý vị minh tâm kiến tánh cũng chứng viên mãn.

Do vậy, hai chữ Như Lai có một cách giải thích: Như Lai giả, kim Phật như Cổ Phật chi tái lai Như Lai là Phật hiện tại giống như Cổ Phật trở lại, giống như nhau, cho nên nói: Những điều ta nói đều giống như cổ nhân đã nói. Đúng vậy, chẳng sai tí nào.

Tự Tha bất nhị. Vì vậy, đùn trách nhiệm cho lời cổ nhân nói, chính mình chẳng có sáng tạo, phát minh, đó là khiêm hư. Bất luận là pháp thế gian hay pháp xuất thế gian, khiêm hư là bậc nhất.

Quý vị thấy trong sáu mươi bốn quẻ của Kinh Dịch có câu: Mãn chiêu tổn, khiêm thọ ích. Tự mãn sẽ chuốc lấy tổn hại, khiêm tốn được lợi ích. Trong sáu mươi bốn quẻ, chỉ có quẻ Khiêm là Lục hào giai cát, sáu hào đều tốt lành. Tâm con người hiện thời hời hợt, bộp chộp, chẳng khiêm hư.

Do vậy, chẳng những không thể tiếp nhận Thánh Giáo, mà học thuật thế gian cũng chẳng thể thành tựu. Hiện tại, tìm chẳng ra những nhà văn học giống như thời Đường, Tống, Nguyên, Minh.

Vì thế: Thuật nhi bất tác rất quan trọng.

Tín nhi hiếu cổ: Đối với những trước tác của cổ nhân, thành tâm tin tưởng, một chút hoài nghi cũng chẳng có. Ưa chuộng cổ nhân, vui thích những giáo huấn của cổ nhân, những thứ ấy đã trải qua bao nhiêu thử thách, chịu đựng nổi khảo nghiệm, bị thời gian lẫn con người khảo nghiệm mà vẫn có thể lưu truyền tới nay, chứng tỏ chúng có giá trị, chúng ta phải tôn trọng, nghiêm túc, nỗ lực học tập.

Quý vị thấy Phật Pháp nói theo lý rất đơn giản, chúng sanh và Phật chẳng khác, khác nhau ở chỗ nào?

Mê hay ngộ. Phật, Bồ Tát đã giác ngộ, chúng sanh chưa giác ngộ, mê rồi.

Do vậy, Phật, Bồ Tát giúp đỡ chúng sanh, giúp gì?

Giúp họ phá mê khai ngộ, giúp họ vọng tận, hoàn nguyên hết vọng, trở về nguồn, đấy là giáo dục.

Giúp họ hoàn nguyên, giúp họ chứng đắc Bồ Tát, chứng đắc Phật, có công đức hay không?

Chẳng có công đức.

Vì sao?

Họ vốn là Phật, vốn là Bồ Tát. Giác ấy là bổn giác, bổn giác vốn có. Quý vị mới biết những bậc Đại Thánh Đại Hiền giúp người, tâm địa thanh tịnh lắm, thật sự chẳng nhiễm mảy trần, chẳng có vọng niệm nào. Nếu tôi giúp quý vị như thế là có ân đối với quý vị.

Đấy là vọng niệm, không có vọng niệm ấy. Chẳng có mảy may nào. Cho nên các Ngài thanh tịnh, tự tại, chúng ta nhất định phải hiểu điều này.

Hiện thời, con người hiểu lầm Phật Giáo rất sâu, khi chúng ta giảng giải, phải đặc biệt giảng rõ ràng. Người Ấn Độ nói Phật, người Hán nói Thánh Nhân.

Phật nghĩa là gì?

Nghĩa là giác ngộ.

Thánh là gì?

Thánh có nghĩa là hiểu rõ.

Hiểu rõ chẳng phải là giác ngộ ư?

Giác ngộ chẳng phải là hiểu rõ ư?

Bởi lẽ, tự tha là một, chẳng hai.

Chúng ta xưng tụng Khổng Tử là Chí Thánh Tiên Sư, chúng ta cũng có thể xưng tụng Phật giống như vậy: Chí Thánh Bổn Sư. Dùng cách xưng hô như vậy, mọi người sẽ chẳng cảm thấy mê hoặc, sẽ không nói Phật Giáo là Tôn giáo. Chí Thánh Bổn Sư, về căn bản là một bậc thầy.

Các Ngài đều dạy chúng ta: Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ.

Hai câu nói này của Khổng Tử được chép trong sách Luận Ngữ, còn hai câu này của Phật được ghi ở nơi đâu?

Trong Kinh Hoa Nghiêm, tức là trong lời giảng về tựa đề của bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm, Thanh Lương Đại Sư bảo Đức Phật còn nói viên mãn hơn Khổng Tử. Ngài nói Đức Thế Tôn từng bảo hết thảy các Kinh do Lão nhân gia đã nói trong bốn mươi chín năm đều do Cổ Phật đã nói.

Đối với các Kinh do Cổ Phật đã nói, Đức Phật chẳng nói thêm một chữ nào: Thuật nhi bất tác, Ngài nói đến mức độ ấy, đúng hay không?

Đúng.

Vì sao?

Phật hiện tại và Cổ Phật chẳng khác, sở chứng của Phật hiện tại là sở chứng của Cổ Phật, sở thuật của Phật hiện tại là sở thuật của Cổ Phật, chẳng khác nhau.

Như vậy thì chúng ta thực hiện hai câu này ra sao?

Thực hiện trong lần này. Đây là lần thứ mười một tôi giảng bộ Kinh này, dùng Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa, hoàn toàn dựa theo bản chú giải của thầy Hoàng Niệm Tổ.

Chúng ta báo ân, báo ân Cụ Hạ đã vì chúng ta hội tập một bộ sách viên mãn như vậy, hy hữu khó gặp gỡ. Tôi tin Cụ Hạ chẳng phải là người thường, mà là bậc tái lai. Tôi từng hỏi Cụ Hoàng.

Cụ Hoàng khẽ gật đầu, bảo: Chớ nên nói điều này với người ngoài.

Chúng tôi biết, trong tâm hiểu rõ: Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cũng không phải là người tầm thường, trong hoàn cảnh khó khăn như thế mà viết ra một bộ chú giải như vậy, quá khó có.

Sưu tập lắm tài liệu như thế. Tôi đã đến nhà cụ vài lần, thấy các tài liệu chất đống trong thư phòng. Quả thật là Tam Bảo gia trì, gần như cụ nghĩ đến thứ gì, đều có người tặng cho.

Người tầm thường có thể được như vậy hay chăng?

Bộ Kinh hay như thế, bản chú giải tuyệt như thế, nếu chúng ta chẳng sốt sắng học tập, sao chẳng phụ lòng Cụ Hạ?

Sao chẳng khiến Cụ Hoàng thất vọng?

Sao khỏi phụ lòng Thích Ca Mâu Ni Phật đã nhiều lần tuyên giảng bộ Kinh này?

Báo ân Phật, báo ân thầy, báo ân quốc gia, báo ân chúng sanh, chúng ta dùng phương pháp diễn nghĩa này cũng là nghiêm túc, cẩn thận học tập. Đó là nhân duyên giảng Kinh lần này.

Trong thời đại này, phương thức báo ân cụ thể là phải dùng phương pháp này, chúng tôi làm trước tiên. Hôm nay đã hết thời gian, chúng ta học tập tới đây. Ngày mai, chúng ta sẽ bắt đầu học từ phần tiền ngôn lời mở đầu.

À! Cám ơn mọi người.

A Di Đà Phật!

***