Giaùo duïc cuûa Ñöùc Phaät laø giaùc ngoä töï taùnh
Kinh Ñieån Phaät Thuyeát vieân maõn ñuùng nghóa laø hoïc taäp vaø chuyeân tu

daitangkinh.vn

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không
 

TẬP HAI - A
 

Thưa chư vị Pháp Sư, chư vị đồng học, xin ngồi xuống!

Xin hãy xem Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh Giải.

Ba chữ Hội Tập Bản chẳng cần đến, từ Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh Giải bèn có thể hiểu rõ. Chúng ta dùng bản này do lão cư sĩ Hạ Liên Cư ở huyện Vận Thành, tỉnh Sơn Đông hội tập, người chú giải là lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ.

Cụ Hoàng cũng là một vị Kim Cang Thượng Sư bên Mật Tông. Chú Giải có tất cả bốn quyển, nay chúng ta in thành một tập.

Bản quý vị vừa xem, tức là bản tôi đang cầm đây được chỉnh lý vào năm ngoái. Bản này được lưu thông rất nhiều, trong ngoài nước, hồi mười năm trước, chúng tôi in lần đầu một vạn bản. Sau này, gần như hàng năm đều có số lượng bản in tương đương được lưu thông. Xin xem quyển thứ nhất.

Chúng ta học tập lần này, hoàn toàn học tập bản Chú Giải của Cụ Hoàng. Chúng ta báo đáp vị lão nhân này lúc tuổi già đã một phen khổ tâm, kế thừa hoằng nguyện của thầy, mong muốn Tịnh Tông được vĩnh viễn truyền thừa. Trong ngày hôm qua, chúng tôi đã báo cáo nhân duyên này với quý vị.

Hôm nay chúng ta xem quyển thứ nhất. Tùng tiền ngôn, khái yếu, chí chánh thích Kinh Văn đệ nhất phẩm chí đệ tam phẩm.

Từ lời nói đầu, phần khái yếu cho tới phần giải thích chánh Kinh từ phẩm thứ nhất tới phẩm thứ ba, cho biết nội dung quyển thứ nhất là giảng đến phẩm thứ ba của chánh Kinh. Cả bộ Kinh có bốn mươi tám phẩm.

Trước hết, chúng ta xem phần thứ nhất là tiền ngôn lời nói đầu. Phù Tịnh Độ pháp môn giả, nãi nhất thừa liễu nghĩa, vạn thiện đồng quy, tam căn phổ bị, phàm Thánh tề thâu, hoành siêu tam giới, kính đăng Tứ độ, cực viên cực đốn, bất khả tư nghị chi vi diệu pháp môn dã.

Pháp môn Tịnh Độ là nhất thừa liễu nghĩa, muôn điều thiện cùng quy vào, độ khắp ba căn, phàm lẫn Thánh đều được tiếp độ, vượt khỏi Tam Giới theo chiều ngang, mau chóng vượt lên bốn cõi, cực viên, cực đốn, là pháp môn vi diệu chẳng thể nghĩ bàn.

Đoạn mở đầu này là một tiểu đoạn nhằm tán thán Tịnh Độ, tán thán Tịnh Độ đến tột bậc.

Có đúng là như vậy hay chăng?

Phật Thích Ca giảng Kinh thuyết pháp bốn mươi chín năm, trong bốn mươi chín năm nói rất nhiều Kinh, bộ Kinh nào trọng yếu nhất, Kinh nào là Kinh bậc nhất?

Chúng ta nghĩ như vậy, chẳng biết cổ nhân đã sớm có cách nói như vậy. Trong thời đại Tùy Đường, các vị đại đức phương Đông lẫn phương Tây, phương Đông là những Cao Tăng, Tổ Sư đại đức Trung Quốc, phương Tây là các vị Đại Sư từ Ấn Độ sang phương Đông truyền đạo, dịch Kinh.

Trong đó, còn bao gồm các đại đức Nhật Bản hay Hàn Quốc tới học ở Trung Quốc. Sau đó, họ trở về nước, đều thành bậc Tông Sư trong nước mình, như mười ba tông phái của Nhật Bản đều từ Trung Quốc truyền sang. Đi về phương Nam còn bao gồm Việt Nam. Do vậy, Phật Giáo Việt Nam cũng từ Trung Quốc truyền sang.

Thuở ấy, có Tổ Sư đại đức nêu ra câu hỏi như thế này: Trong các Bộ Kinh do Đức Thế Tôn đã nói trong bốn mươi chín năm, Bộ Kinh nào có thể đại diện cho Kinh Giáo cả một đời Đức Thế Tôn?

Các vị đại đức gần như đều công nhận Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, mọi người công nhận. Bất luận tông, phái nào cũng đều thừa nhận.

Do vậy, Kinh Hoa Nghiêm biến thành căn bản pháp luân trong Phật Pháp, giống như một cây to, đây là cội, đây là rễ, tất cả các chi phái đều từ căn bản này mà phát triển ra. Lại truy cứu đến chỗ cuối cùng của Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Hoa Nghiêm là căn bản, chỗ quy túc cuối cùng của Kinh Hoa Nghiêm là Mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc.

Đây là khí tượng như thế nào?

Bổn Sư của Thế Giới Hoa Tạng là Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Văn Thù, Phổ Hiền giúp Tỳ Lô Giá Na Phật Giáo hóa chúng sanh, họ là hai đại đệ tử thủ lãnh trong hàng đệ tử.

Văn Thù chủ trì giải môn, tượng trưng cho trí huệ. Phổ Hiền chủ trì hạnh môn, tượng trưng cho tu chứng. Một đằng là hạnh môn, một đằng là giải môn. Đến cuối cùng, Phổ Hiền Bồ Tát, Kinh Hoa Nghiêm lấy Thiện Tài Đồng Tử làm đại biểu, dùng Mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc.

Qua Kinh Điển, chúng ta thấy hai vị Bồ Tát này: Văn Thù là thầy của bảy vị Phật, học trò đều thành Phật, nhiều người đã thành Phật, Lão Nhân Gia vẫn giữ thân phận Bồ Tát, vẫn phù tá Tỳ Lô Giá Na Phật dạy dỗ hàng pháp thân Đại Sĩ, từ bi đến tột bậc.

Đây gọi: Đảo giá từ hàng, thả chiếc bè từ. Ngài đã thành Phật, bèn lui xuống địa vị Bồ Tát, điều này có ý nghĩa biểu thị pháp rất sâu.

Phật dạy chúng sanh chẳng dễ, vì sao?

Phật tượng trưng cho bản thể, tượng trưng pháp tánh.

Pháp tánh không có tướng, pháp tánh là gì?

Pháp tánh là Thường tịch quang. Chúng ta gọi cõi cao nhất trong bốn Cõi Tịnh Độ là Thường Tịch quang tịnh độ, Thường tịch chỉ pháp tánh. Thường tịch quang chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần.

Cả hai phương diện này đều chẳng bàn luận được, do không có cách nào, nên gọi nó là Thường tịch quang. Thường là vĩnh hằng bất biến, chữ thường mang ý nghĩa này. Tịch là thanh tịnh tịch diệt.

Quý vị thấy Lục Tổ Huệ Năng Đại Sư đã kiến tánh, câu nói đầu tiên là: Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, Tịch mang ý nghĩa này.

Diệt là gì?

Diệt là diệt hết thảy phiền não.

Kinh Hoa Nghiêm gọi phiền não là: Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Trong giáo pháp đại thừa, vọng tưởng được gọi là vô minh phiền não, hoặc gọi là căn bản vô minh, phân biệt được gọi là trần sa phiền não. Kinh đại thừa gọi chấp trước là kiến tư phiền não. Danh xưng khác nhau, ý nghĩa hoàn toàn tương đồng.

Đối với những điều Kinh Hoa Nghiêm đã nói, chúng ta hiểu dễ dàng, nhưng rất khó thể hiểu nổi ý nghĩa chân thật, chúng ta hiểu theo kiểu nuốt trọn quả táo.

Do vậy, căn bản vô minh, trần sa, kiến tư như Kinh đại thừa đã nói chẳng dễ hiểu cho lắm, nhưng giảng giải sẽ trở nên dễ lý giải hơn.

Do vậy, chúng ta biết: Những danh từ thuật ngữ trong Kinh Giáo là bất định, Đức Phật chẳng có pháp nhất định để nói. Do vậy, chúng ta y nghĩa, chẳng y ngữ, quý vị phải hiểu ý nghĩa của chúng, đừng chấp trước nơi ngôn ngữ, văn tự, danh tướng, đều chẳng cần chấp trước. Hiểu những ý nghĩa được tượng trưng bởi chúng là được rồi.

Do vậy, chúng ta học Phật, phải biết tư tưởng trung tâm trong giáo pháp suốt một đời Thích Ca Mâu Ni Phật là gì?

Là Tịnh Độ. Trong hội Hoa Nghiêm, ta thấy Văn Thù, Phổ Hiền suất lãnh bốn mươi mốt địa vị pháp thân Đại Sĩ của Thế Giới Hoa Tạng, từ Sơ trụ Bồ Tát đến Thập địa Bồ Tát, kể cả Đẳng giác là bốn mươi mốt địa vị.

Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa bốn mươi địa vị, thêm địa vị Đẳng giác, là bốn mươi mốt địa vị pháp thân Đại Sĩ, đến nơi đâu?

Đến Thế Giới Cực Lạc, lễ bái A Di Đà Phật. Quý vị hãy suy ngẫm cảnh giới này, sẽ thấy Tỳ Lô Giá Na Phật có lòng độ lượng rất lớn.

Nếu nói theo chúng ta hiện thời, chúng ta theo một vị thầy, nghiễm nhiên phát hiện một vị thầy tốt đẹp, bèn dẫn hết các đồng học sang chỗ vị thầy kia, trong lòng vị thầy này sẽ nghĩ như thế nào?

Chẳng phải là rất khó chịu ư?

Đó là phản thầy, nghịch đạo.

Không những Tỳ Lô Giá Na Phật chẳng phản đối, mà Tỳ Lô Giá Na Phật còn vui vẻ: Tốt. Các quý vị sang đó hay lắm. Sang gặp A Di Đà Phật.

Vì sao?

A Di Đà Phật và Tỳ Lô Giá Na Phật bất nhị, là một, chẳng hai.

Vì sao sang Thế Giới Cực Lạc?

Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật có phương tiện thiện xảo, giúp quý vị tu hành chứng quả, rút ngắn thời gian rất nhiều.

Trong Thế Giới Hoa Tạng, chúng ta nói về bậc Sơ trụ Bồ Tát trong Viên giáo, chứng đắc Phật Quả rốt ráo viên mãn phải mất thời gian bao lâu?

Ba đại A tăng kỳ kiếp.

Ba đại A tăng kỳ kiếp là nói như thế này: Chẳng phải là tính từ hiện tại, chẳng phải vậy. Mà bắt đầu tính từ lúc quý vị minh tâm kiến tánh, chưa minh tâm kiến tánh chẳng tính. Minh tâm kiến tánh là Sơ trụ Bồ Tát trong Viên giáo hay Sơ địa Bồ Tát trong Biệt giáo, bắt đầu tính từ ngày đó, cần thời gian dài ngần ấy.

Đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thì sao?

Đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới trong một ngày bèn viên mãn, đó gọi là gì?

Niệm và kiếp viên dung chẳng thể nghĩ bàn.

Vì thế, quý vị nói xem: Thế Giới Cực Lạc rất thù thắng.

Cho nên, Cổ đại đức bảo: Khi truy cứu đâu là tột đỉnh của Phật Pháp, từ Hoa Nghiêm chúng ta truy tới Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm tới cuối cùng trở về Kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ chuyên giảng Thế Giới Cực Lạc.

Kinh Vô Lượng Thọ có chín bản, có thể nói bản này của lão cư sĩ Hạ Liên Cư là bản hay nhất. Trong năm bản dịch, bản này được coi là bản hoàn chỉnh nhất, đây là công trình tổng hợp hoàn thiện năm bản dịch gốc.

Từ đời Tống trở đi, đã có người muốn làm chuyện này, Vương Long Thư hoàn thành đầu tiên. Trong phần sau, chúng tôi sẽ báo cáo tỉ mỉ. Ông ta hội tập khá lắm, nhưng vẫn có tỳ vết, chưa phải là tận thiện, tận mỹ.

Về sau, trong niên hiệu Hàm Phong Nhà Thanh, cư sĩ Ngụy Mặc Thâm hội tập lần thứ hai, đương nhiên hay hơn bản của Vương Long Thư. Vương Long Thư chỉ đọc bốn bản dịch gốc, còn Ngụy Mặc Thâm xem trọn năm bản dịch gốc, hội tập cũng khá, nhưng vẫn chưa tận thiện, tận mỹ, trong ấy có vấn đề.

Mãi cho tới cuối cùng, đầu thời Dân Quốc, lão cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập lần thứ ba. Rất lạ lùng, ba lần hội tập đều là tại gia cư sĩ, tại gia Bồ Tát, cho thấy pháp môn Tịnh Độ có duyên vô cùng thù thắng với kẻ tại gia, cho nên ba lần hội tập đều do hàng tại gia.

Trong ấy, có nghĩa thú biểu thị pháp sâu xa, thành tựu thù thắng khôn sánh, trong những phần sau chúng ta sẽ thấy những điều này. Mở đầu, Cụ Hoàng giới thiệu với chúng ta, cụ bảo pháp môn này là nhất thừa liễu nghĩa.

Kinh nhất thừa là gì?

Chúng ta thường thấy nhị thừa, nhị thừa là đại thừa và tiểu thừa, đó gọi là nhị thừa. Tam thừa là Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, và Bồ Tát Thừa, tức là tách tiểu thừa thành Thanh Văn và Duyên Giác.

Thanh Văn là A La Hán, Duyên Giác là Bích Chi Phật. Tách tiểu thừa thành hai, Bích Chi Phật cao hơn A La Hán một chút. Đó là tam thừa. Trong Kinh Pháp Hoa, Đức Thế Tôn đã nói rõ Chư Phật Như Lai ứng hóa trong thế gian này để giáo hóa chúng sanh.

Phẩm Phương Tiện của Kinh Pháp Hoa có nói: Thập phương Phật độ trung, duy hữu nhất thừa pháp, vô nhị, diệc vô tam, trừ Phật phương tiện thuyết. 

Trong mười phương Cõi Phật, chỉ có pháp nhất thừa, không hai, cũng không ba, trừ Phật nói phương tiện. Bài kệ này hết sức trọng yếu, nói cách khác, Đức Phật giảng tam thừa hay giảng nhị thừa là nói phương tiện.

Nói chân thật thì sao?

Nói chân thật là pháp nhất thừa. Nhất thừa là Phật Thừa, nói cách khác, pháp môn này nhằm dạy người ta thành Phật, lại còn thành Phật ngay trong một đời. Đó là pháp nhất thừa. Đại thừa là thành Bồ Tát, trong một đời này, quý vị tu đến quả vị tối cao là Bồ Tát. Đó là đại thừa.

Nếu trong đời này, quý vị tu thành A La Hán hay tu thành Bích Chi Phật thì là tiểu thừa. Giống như chúng ta đi học.

Nhất thừa là gì?

Nhất thừa là lớp tiến sĩ nghiên cứu sinh. Trong đời này, quý vị đạt được học vị degree tối cao, đại thừa là lớp thạc sĩ cao học, Master, tiểu thừa là học sĩ, cử nhân, Bachelor. Tốt nghiệp đại học là học sĩ.

Tam Thừa là danh xưng của ba loại học vị trong Phật Môn, cần phải biết điều này. Pháp môn nào có thể chứng đắc Phật Quả rốt ráo trong một đời sẽ gọi là nhất thừa, pháp môn ấy cũng là pháp môn nhất thừa, Kinh ấy cũng là Kinh nhất thừa.

Trước hết, chúng tôi giảng chữ nhất thừa theo cách giải thích thông thường trong Kinh Phật: Thừa là ví như cỗ xe, cổ nhân dùng xe làm tỷ dụ. Đại thừa là cỗ xe lớn. Thời cổ, xe lớn là xe ngựa. Xe ngựa to, có thể ngồi được nhiều người.

Tôi nhớ lúc nhỏ đi học tại Nam Kinh, đi học bằng xe ngựa, một cỗ xe ngựa chở được bao nhiêu học trò?

Mười bốn đứa, ngồi xe ngựa đi học. Sau khi Kháng chiến thắng lợi, xe ngựa vẫn còn. Sau khi Kháng chiến thắng lợi, nhằm năm Dân Quốc 34 hay năm Dân Quốc 35, 1946, tôi học tại Nam Kinh, thuở ấy xe ngựa rất nhiều, xe bus không nhiều lắm. Tiểu thừa là xe dê hay xe nai. Xe dê hay xe nai khá nhỏ, chỉ ngồi được một, hai người.

Trong Kinh Pháp Hoa, Đức Phật dùng điều này làm tỷ dụ. Thừa có nghĩa là chuyên chở. Phật thuyết nhất thừa chi pháp, vị linh chúng sanh, y thử tu hành, xuất ly sanh tử khổ hải, vận chí Niết Bàn bỉ ngạn.

Phật nói pháp nhất thừa để làm cho chúng sanh nương theo pháp này tu hành, thoát khỏi biển sanh tử, chở đến bờ Niết Bàn bên kia. Niết Bàn này là Niết Bàn rốt ráo. Niết Bàn của tiểu thừa cũng gọi là Niết Bàn, nhưng là Thiên chân Niết Bàn. Tiểu thừa thoát sanh tử là thoát khỏi sự sanh tử trong lục đạo luân hồi, cho nên họ chứng đắc Thiên chân Niết Bàn.

Đại Thừa lìa hai thứ sanh tử: Loại thứ nhất là phần đoạn sanh tử, nay thọ mạng của chúng ta là từng thời kỳ, từng giai đoạn một.

Loại thứ hai là biến dịch sanh tử. Biến dịch sanh tử chẳng dễ hiểu. Ví như chúng ta đi học, chúng ta học lớp một. Học lớp một xong, năm sau lên lớp hai, lớp một đã chết, lớp hai bèn sanh, mang ý nghĩa này.

Nói lên điều gì?

Chúng ta đang đi trên đường bồ đề, bất luận là đại thừa hay tiểu thừa, tiểu thừa có tám địa vị, theo Kinh Hoa Nghiêm, đại thừa có bốn mươi mốt địa vị. Quý vị tiến lên từng bước một, vừa rời khỏi địa vị dưới, lên địa vị trên, bèn gọi là biến dịch. Biến dịch chẳng phải là sanh tử thật sự.

Vì sao dùng danh từ sanh tử?

Sanh tử khổ lắm. Quý vị leo lên một lớp cũng rất khổ cực, phải làm bài tập, chẳng dễ gì lên lớp. Do vậy, quý cũng phải nếm những nỗi khổ sở, mới có thể tiến cao hơn.

Quý vị thấy một người từ tiểu học, trung học, đại học, học tới nghiên cứu sinh, cũng phải học mất hai mươi mấy năm. Quý vị phải hứng chịu rất nhiều khổ sở mới có thể giành được học vị. Đó là biến dịch sanh tử.

Từ A La Hán trở lên, đã thoát khỏi lục đạo. Trong lục đạo có cả hai loại sanh tử, biến dịch cũng có, mà phần đoạn cũng có. Ngoài lục đạo là Tứ Thánh pháp giới. Trong Tứ Thánh pháp giới có biến dịch, nhưng không có phần đoạn sanh tử.

Trong lục đạo có nỗi khổ sanh tử, ngoài lục đạo chẳng có, nhưng có biến dịch. Tu hành cũng chẳng phải là chuyện rất dễ dàng, cũng phải nghiêm túc, nỗ lực, tinh tấn, lại còn phải buông xuống phân biệt, buông bỏ tập khí phân biệt, rồi buông vọng tưởng xuống.

Buông vọng tưởng xuống, mười pháp giới chẳng còn, bèn đạt tới nhất chân pháp giới, đạt đến Cõi Thật báo trang nghiêm của Chư Phật Như Lai. Đức Thế Tôn đã có mục tiêu thật sự là mong cho hết thảy chúng sanh mau chóng thành Phật giống như Ngài.

Nhưng căn tánh của chúng sanh không giống nhau, mê hoặc có sâu hay cạn, tập khí khác nhau. Mê sâu, tập khí nặng, sẽ chẳng thể tiếp nhận pháp đại thừa, nên Đức Phật bèn dùng pháp phương tiện.

Ví như thầy và cha mẹ chúng ta đều mong chúng ta đạt được học vị tiến sĩ, nhưng học vị tiến sĩ chẳng dễ gì đạt được, làm cách nào đây?

Mở trường học, lập ra tiểu học, trung học, đại học, nâng trình độ của quý vị lên từ từ. Trung học, tiểu học, đại học đều là phương tiện quyền xảo, chương trình tiến sĩ mới là mục tiêu thật sự, Đức Phật dạy học cũng giống như vậy.

Quý vị thấy Đức Thế Tôn sau khi giác ngộ dưới cội Bồ Đề, đại triệt, đại ngộ, thuật bày viên mãn cảnh giới Ngài đã ngộ nhập, nói suốt mười bốn ngày.

Mười bốn ngày ấy là nói trong định, chúng ta thấy Phật Thích Ca nhập định dưới cội Bồ Đề, đâu biết Ngài giảng Kinh nơi đó, giảng Kinh gì?

Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, là cảnh giới do chính Ngài chứng đắc. Chúng ta nhìn lại Trung Quốc, vào đời Đường, Huệ Năng Đại Sư cũng đã minh tâm kiến tánh. Trong Phương Trượng thất của Hòa Thượng Ngũ Tổ Nhẫn, Ngũ Tổ giảng Kinh Kim Cang cho Sư.

Huệ Năng Đại Sư không biết chữ, đương nhiên chẳng có quyển Kinh, Tổ giảng đại ý Kim Cang Kinh, giảng đến chỗ ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm. Đừng trụ vào đâu để sanh tâm, Sư đại triệt đại ngộ.

Sư cũng nói ra cảnh giới của chính mình, thốt ra năm câu. Năm câu ấy chẳng khác gì Kinh Hoa Nghiêm do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói. Kinh Hoa Nghiêm rút gọn thành năm câu ấy, mà năm câu ấy triển khai sẽ thành Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh.

Huệ Năng Đại Sư nói năm câu: Câu đầu tiên là: Nào ngờ tự tánh, vốn tự thanh tịnh, không nghĩ đến, kiến tánh rồi, nào ngờ tánh vốn sẵn thanh tịnh, chưa từng bị ô nhiễm.

Tự tánh của chúng ta có ô nhiễm hay không?

Không. Ô nhiễm sẽ chẳng thật, sẽ biến thành đồ giả.

Chúng ta nói ô nhiễm là thứ gì vậy?

A lại da ô nhiễm, A lại da là vọng tâm. Tự tánh là chân tâm, chân tâm chưa từng bị ô nhiễm. Do vậy, nhiễm là vọng tâm. Nay chúng ta đang mê, nhưng thật sự chẳng biết, ngỡ giả là thật, thiệt thòi ở chỗ này.

Câu thứ hai là: Nào ngờ tự tánh, vốn chẳng sanh diệt. Vốn chẳng sanh diệt là Đại Bát Niết Bàn, đây là khát vọng tha thiết bất sanh bất diệt của tất cả các Tôn giáo tại Ấn Độ thời cổ. Hiện tại, mỗi Tôn giáo đều nói sống đời đời chính là ý nghĩa này.

Có sống đời đời hay không?

Có. Cái ngã thật sự sẽ sống mãi, giả ngã có sanh tử, cái ngã ấy là giả, chẳng thật. Quý vị hiểu rõ chuyện này sẽ rất thoải mái, thảnh thơi, chẳng còn sợ hãi. Những thứ ấy là giả, mặc cho nó sanh diệt như thế, chân ngã vĩnh hằng bất diệt. Quý vị tìm lại cái thật này, Đức Phật dạy chúng ta tìm cái thật. Đây là đại sự.

Ngài nói câu thứ ba rất hay: Nào ngờ tự tánh vốn tự trọn đủ, trọn đủ gì vậy?

Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Thế Tôn đã nói một câu nhằm căn dặn rõ ràng, Phật dạy: Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai. Đây là vốn tự trọn đủ. Như Lai là nói về tự tánh. Trong giáo pháp đại thừa, quý vị thấy nói Phật, nói Như Lai.

Trong Mười Đại Nguyện Vương: Lễ Kính Chư Phật, xưng tán Như Lai. Nói Phật là nói theo tướng. Nói Như Lai là nói theo tánh, khác nhau ở chỗ này. Tướng là giả, tánh là thật. Đây là chỗ khác nhau giữa hai danh từ này.

Nói: Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ của Như Lai chính là nói đến tự tánh. Trong tự tánh của quý vị có trí huệ, trí huệ viên mãn.

Đó là gì?

Sẵn có trong tự tánh, chẳng phải do học được. Trí huệ viên mãn, không gì chẳng biết, không gì chẳng thể. Đây là lời tán thán Thượng Đế của các Tôn giáo thông thường. Thượng Đế và thần chưa chắc có những đặc tánh này, nhưng tự tánh thật sự có.

Vì sao biết?

Thượng Đế và Thần cũng là chúng sanh trong lục đạo, thuộc Thiên đạo. Họ vẫn chưa ra khỏi lục đạo, vẫn chưa thoát tam giới, vẫn là mê chẳng giác, phước báo lớn hơn chúng ta, trí huệ nhiều hơn chúng ta một chút, nhưng vẫn chưa đạt đến viên mãn rốt ráo. Tự tánh sẵn có trí huệ mới là viên mãn.

Đây là gì?

Khi nó ẩn, nhà Phật gọi là ẩn hiện, ẩn là gì?

Ví như cái màn huỳnh quang của chúng ta trong hiện thời, nhấn nút tắt đi, hình ảnh gì cũng chẳng có. Đó là nào ngờ tự tánh, vốn tự sẵn đủ. Quý vị chẳng thể nói chúng không có. Vặn đúng băng tần, chúng bèn hiện tiền.

Vặn đúng băng tần thì sao?

Có thể sanh vạn pháp, chúng bèn hiện tiền. Lúc chẳng hiện tiền, chẳng thể bảo là không. Khi hiện tiền, chẳng thể nói là có. Điều này được sách Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán giảng rất rõ ràng, quý vị chẳng thể nói nó là có. Đây là chân tướng sự thật, chúng ta nên hiểu rõ.

Ngài nói câu thứ tư: Nào ngờ tự tánh vốn chẳng lay động, như bất động, đây là một mấu chốt quan trọng nhất trong tu hành.

Quý vị tu gì?

Nhà Phật thường nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, tu gì?

Thưa quý vị, đều là tu thiền định, đều gọi là tam muội. Tam muội Samādhi là tiếng Phạn, tam là chánh, muội là định, tam muội là chánh định.

Vốn là chánh định, tâm quý vị vốn định, nay vì sao tâm loạn như thế?

Loạn là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm. Chân tâm vốn định, chưa hề bị dao động. Đó là năm câu nói của Huệ Năng Đại Sư lúc khai ngộ.

Sau khi nói ra năm câu này, Ngũ Tổ bảo: Được rồi, truyền y bát cho Ngài.

Truyền cho Ngài rồi như thế nào?

Bảo Ngài hãy đi cho nhanh, tìm nơi lánh nạn.

Lánh nạn gì?

Phải biết là xưa nay, trong ngoài, đố kỵ, chướng ngại ở đâu cũng chẳng tránh khỏi.

Quý vị nói xem: Thần Tú Đại Sư ở Đạo tràng của Nhẫn Hòa Thượng, Tổ Hoằng Nhẫn bao nhiêu năm, là một đồ đệ được mọi người kính ngưỡng nhất của Tổ.

Ai nấy đều cho rằng Ngũ Tổ truyền pháp, chắc chắn truyền cho Thần Tú, tại sao vô duyên vô cớ truyền cho người khác?

Gã ấy trọn chẳng có ai biết đến, lại còn không biết chữ?

Quý vị thấy Ngài Huệ Năng đến núi Hoàng Mai làm gì suốt tám tháng?

Giã gạo trong phòng chứa củi.

Sư ở Hoàng Mai tám tháng, chưa từng vào Thiền Đường, giảng đường cũng chẳng mò đến, chưa từng nghe Kinh ngày nào, cớ sao Ngũ Tổ đem y bát truyền cho Ngài, ai phục?

Chẳng ai phục, chắc chắn sẽ tìm Ngài gây sự, đoạt y bát về. Đấy là chuyện nhỏ, chuyện lớn là có thể còn hại mạng Ngài nữa kia.

Do vậy, Tổ bảo Ngài đi cho nhanh, Ngài lập tức cầm y bát đi ngay. Trốn trong phường thợ săn mười lăm năm. Mười lăm năm ấy khiến mọi người dần dần quên đi chuyện này, Ngài mới ra mặt. Ra mặt, bèn gặp Pháp Sư Ấn Tông, Ấn Tông tuyệt lắm.

Ngài Ấn Tông ở Lãnh Nam, nay chúng ta gọi vùng ấy là Quảng Đông, khi ấy, gọi là Lãnh Nam, Sư Ấn Tông là bậc Cao Tăng, giảng Kinh, thuyết pháp bậc nhất.

Đạo Tràng giảng Kinh của Ngài nay ở Quảng Châu, Chùa nào ở Quảng Châu?

Gió động, hay phan động, lão Hòa Thượng Bổn Hoán làm Trụ Trì Chùa ấy. Tôi không nhớ nổi Chùa nào ở Quảng Đông. Quang Hiếu Tự, đúng rồi, Chùa Quang Hiếu là nơi Sư giảng Kinh Niết Bàn. Lục Tổ rời khỏi phường thợ săn đến Quảng Đông, gặp Đạo tràng như vậy, ngồi ở phía sau nghe Kinh.

Nghe hai vị xuất gia đang biện luận, một người nói: Lá phan treo bên ngoài động. quý vị thấy lá phan đang lay động.

Người kia nói: Chẳng phải là phan động, mà là gió động.

Hai vị tranh luận không ngớt, Ngài nói chen vào một câu, Ngài nói: Thưa nhân giả, hết sức khiêm hư, vô cùng khách sáo, nhân giả đấng nhân từ là tiếng gọi bậc Bồ Tát, là cách xưng hô tôn kính nhất, Ngài gọi họ là nhân giả. Chẳng phải là gió động, cũng chẳng phải là phan động.

Ngài nói: Mà là tâm của nhân giả động. Khi nghe vậy, hết thảy mọi người bội phục năm vóc sát đất. Ấn Tông giảng xong, bước xuống bục giảng, gặp mặt Tổ, liền hỏi, ngày nay chúng ta thường gọi sự đối đáp này là Thiền Cơ.

Pháp Sư Ấn Tông hỏi: Nghe nói Ngài Hoàng Mai về sau truyền pháp cho hành giả, có tên là Năng Đại Sư, chẳng lẽ là Ngài?

Huệ Năng Đại Sư bèn thừa nhận.

Sư bèn thỉnh cầu: Ngài hãy giở y bát ra cho chúng tôi xem. Y bát ấy là chứng minh, nhận đúng người rồi. Đối với Kinh Giáo, Pháp Sư Ấn Tông còn có chút vấn đề bèn thỉnh giáo Đại Sư, Ngài đều giải thích cho Pháp Sư. Sau đấy, Ấn Tông làm lễ xuống tóc xuất gia cho Tổ. Vì thế, Ấn Tông là thầy thế độ của Lục Tổ Huệ Năng Đại Sư.

Nhưng sau khi xuống tóc, Pháp Sư Ấn Tông bái Tổ làm thầy, chuyện này chẳng phải là người thường làm được.

Vị này là Phật hay Bồ Tát thị hiện, nếu không, đâu có lòng độ lượng lớn như thế?

Một vị Cao Tăng khắp vùng Lãnh Nam ngay lập tức bái Tổ làm thầy, địa vị của Huệ Năng Đại Sư liền cao trỗi. Ngay lập tức nâng lên cao. Nếu không, Huệ Năng Đại Sư muốn đạt tới địa vị sâu xa như thế, tối thiểu phải mất mười năm, hai mươi năm, còn nay là được đề cao ngay.

Do vậy, tôi nghĩ Ngài Ấn Tông là Bồ Tát thị hiện, hai vị này thổi kèn hòa tấu cho chúng ta xem, đâu phải là phàm nhân. Năm câu nói ấy của Ngài mở rộng ra sẽ là Kinh Hoa Nghiêm, từng câu, từng chữ trong Kinh Hoa Nghiêm chẳng rời khỏi năm câu ấy.

Do vậy, Huệ Năng Đại Sư chứng đắc cùng một cảnh giới với Thích Ca Mâu Ni Phật.

Một vị dùng thân Phật, dùng thân phận Phật xuất hiện, Phẩm Phổ Môn có nói: Nên dùng thân Phật để độ được, liền hiện thân Phật để thuyết pháp. Ngài Huệ Năng ở Trung Quốc, nên dùng thân Tỳ Kheo xuất hiện, liền hiện thân Tỳ Kheo để thuyết pháp, chẳng khác gì nhau. Chúng ta phải biết điều này.

Phật Pháp bình đẳng, đây là pháp nhất thừa. Vì thế, Thiền Tông Trung Quốc là nhất thừa, nhưng đại thừa không nhất định là nhất thừa. Cổ đại đức bảo Kinh nhất thừa chỉ có ba bộ là Hoa Nghiêm, Pháp Hoa và Phạm Võng. Hết sức đáng tiếc là Kinh Phạm Võng chẳng truyền sang Trung Quốc.

Đó là một bộ Kinh lớn, phân lượng chẳng khác Kinh Hoa Nghiêm cho lắm. Chỉ có một phẩm được truyền sang Trung Quốc là Bồ Tát Tâm Địa Giới Phẩm, tức Bồ Tát Giới, truyền mỗi mình phẩm này, hai quyển, chẳng thấy những phẩm khác. Kinh hoàn chỉnh là hai bộ Hoa Nghiêm và Pháp Hoa.

Đối với Kinh Pháp Hoa, vì sao có thể khẳng định là Kinh nhất thừa?

Kinh nhất thừa là thành Phật trong một đời. Trong phẩm Đề Bà của Kinh Pháp Hoa có nói long nữ tám tuổi thành Phật. Rồng là súc sanh. Long nữ tám tuổi, nghe Văn Thù Bồ Tát giảng Kinh trong Cung rồng, cô ta nghe hiểu, giác ngộ, minh bạch.

Chư vị phải biết: Nghe pháp khai giải, đoạn nghi sanh tín, lập tức thành tựu hạnh môn.

Hạnh môn là gì?

Buông xuống.

Quý vị thấy trong Kinh đại thừa, Đức Phật thường nói: Chỉ cần quý vị có thể buông ba thứ phiền não là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, quý vị liền thành Phật.

Do vậy, chúng tôi tin rằng: Sau khi long nữ nghe hiểu, bèn buông xuống. Sau khi buông xuống, đến núi Linh Thứu gặp Thích Ca Mâu Ni Phật. Sau khi lễ Phật liền hiện thân Phật, thành đẳng chánh giác trong Thế Giới Vô Cấu ở phương Nam. Đấy là Kinh Pháp Hoa.

Chúng ta thấy cuối Kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài viên chứng vô thượng bồ đề trong một đời, Ngài đắc căn bản trí trong hội Văn Thù.

Căn bản trí là gì?

Nếu nói theo cách hiện thời cho dễ hiểu, sẽ là tâm thanh tịnh.

Tâm quý vị thanh tịnh sẽ ra sao?

Chẳng phải là giống như Huệ Năng Đại Sư sao?

Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, đó là căn bản trí.

Ngài buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, đó gọi là gì?

Đốn đoạn, tức là đoạn ngay lập tức, Ngài bèn chứng đắc. Nay chúng ta hiểu điều này, nhưng không bỏ xuống được, vấn đề ở chỗ này.

Người ta thật sự buông xuống, không chỉ buông chấp trước xuống, buông phân biệt xuống, mà ngay cả khởi tâm động niệm cũng buông xuống.

Buông xuống vọng tưởng là chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, đấy là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Do vậy, bèn gọi là Kinh nhất thừa. Buông xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, mười pháp giới chẳng còn.

Bởi lẽ, mười pháp giới là mộng cảnh, lục đạo là: Mộng trong mộng. Chúng ta buông xuống hết thảy chấp trước. Nếu chẳng chấp trước hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, quý vị bèn tỉnh thức, lục đạo chẳng còn, giống như tỉnh mộng.

Tỉnh mộng rồi, sau khi tỉnh mộng, cảnh giới ấy sẽ là Tứ Thánh pháp giới, vẫn là một giấc mộng, nhưng trong giấc mộng ấy, phiền não của Tứ Thánh pháp giới nhẹ hơn chúng ta, chỉ là vọng tưởng, phân biệt. Buông xuống vọng tưởng, phân biệt, mộng cảnh cũng chẳng còn, Tứ Thánh pháp giới cũng chẳng có.

Vì thế, nói: Hễ có hình tướng, đều là hư vọng, chẳng giả tí nào.

Mười pháp giới không có, cảnh giới gì xuất hiện?

Thế Giới Hoa Tạng xuất hiện, Thế Giới Cực Lạc xuất hiện, đó là Cõi Thật báo trang nghiêm của Chư Phật.

Những cõi ấy có thật hay không?

So với chúng ta mà nói thì là thật, thế giới này của chúng ta thiên biến vạn hóa.

Vì thế, lúc ấy, tôi nghĩ không ra vấn đề này, biến như thế nào?

Cớ sao biến đến mức chẳng có cùng tận?

Tôi nghĩ tới lúc nhỏ chơi kính vạn hoa kaleidoscope, bọn họ tìm rất nhiều kính vạn hoa cho tôi, mấy tấm giấy màu, đặt giữa ba miếng gương, quý vị xoay ống kính, vừa xoay thì các kết cấu hình thể pattern trong ấy chưa bao giờ trùng lặp.

Do vậy, chúng ta học bộ Hoàn Nguyên Quán, thấy có câu: Sanh ra vô tận, dùng vật này ống kính vạn hoa có thể tượng trưng nguyên lý ấy, đúng là sanh ra vô tận, chẳng giả.

Điều gì thiên biến vạn hóa trong vũ trụ?

Niệm làm chủ tể, ý niệm làm chủ tể, thuận theo ý niệm của quý vị mà dấy lên biến hóa, chuyện là như vậy đó. Do vậy, phải hiểu rõ chân tướng sự thật này.

Trong Kinh này, Đức Phật dạy chúng ta điều gì?

Dạy chúng ta hiểu rõ chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Mệnh đề này chính là điều các nhà khoa học truy cầu, triết học cũng truy cầu điều này, các nhà Tôn giáo cũng truy cầu điều này, nhưng đều chưa thể nói rõ ràng.

Vì sao họ chẳng nói rõ ràng?

Nay chúng ta hiểu rõ, bọn họ vĩnh viễn chẳng thể nói rõ ràng, vì sao?

Họ chưa đoạn vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, chưa buông xuống được, hễ buông xuống sẽ thấu hiểu. Có những thứ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước này, quý vị nghiên cứu thế nào đi nữa, đều cách một tầng chướng ngại, không có cách nào giải thích rõ ràng. Chỉ có buông xuống, trở về tự tánh.

Vì sao?

Những thứ này chẳng thật, hư huyễn.

Nếu quý vị không tin, quý vị có kinh nghiệm nằm mộng hay không?

Có.

Chúng ta đều có kinh nghiệm nằm mộng, mộng là thật hay giả?

Thế gian này giống như nằm mộng. Vì thế, trong Kinh, Đức Phật rất hay dùng mộng làm tỷ dụ. Mộng, huyễn, bọt nước, bóng dáng, cái chủ yếu trong tỷ dụ này là mộng cảnh. Huyễn, bọt nước, bóng dáng đều là những thứ phụ thuộc, chủ yếu là tỷ dụ này.

Do vậy, trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có một bài kệ vô cùng nổi tiếng nhằm dạy bảo chúng ta: Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ, diệc như điển, ưng tác như thị quán. Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương, cũng như chớp, hãy nên quán như thế.

Đây là cái nhìn của Đức Phật đối với chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Như lộ, diệc như điển, điển là tia chớp, lộ là sương buổi sớm, đây là hai tỷ dụ.

Như điển là nói về một niệm, giống như tia chớp, như lộ là giọt sương mai, nó tồn tại một lúc, mặt trời mọc lên bèn bốc hơi, chẳng còn nữa.

Bốc hơi là nói về tướng tương tục, nối tiếp liên tục. Giống như trong điện ảnh, chúng ta thấy những hình ảnh trên màn bạc. Hình ảnh là tướng tương tục do các tấm phim được rọi sáng kết hợp thành, chẳng thật.

Từ khoa học cận đại, chúng ta có thể hiểu rất rõ ràng, đâu có gì là thật?

Tìm chẳng được thứ nào là thật. Nếu thật sự tìm được cái nào là thật, có thể nói là vĩnh hằng không thay đổi, tối thiểu phải là Cõi Thật báo. Những vật trong Thế Giới Cực Lạc là vĩnh hằng, không có biến hóa, nhưng chúng cũng chưa phải chân thật rốt ráo.

Vì sao?

Kinh bảo Cõi Thật báo xuất hiện như thế nào?

Đoạn hết vô minh, tuy đoạn sạch vô minh, nhưng tập khí vô minh hãy còn, chưa đoạn hết tập khí. Do vậy, Cõi Thật báo trang nghiêm do tập khí vô minh hiện, chẳng phải là vô minh. Thật sự đoạn hết vô minh nên chẳng khởi tâm, chẳng động niệm. Chẳng khởi tâm, không động niệm, nhưng tập khí quá vi tế, không riêng gì chúng ta chẳng biết, A La Hán không biết, Bích Chi Phật cũng chẳng biết.

***