Giaùo duïc cuûa Ñöùc Phaät laø giaùc ngoä töï taùnh
Kinh Ñieån Phaät Thuyeát vieân maõn ñuùng nghóa laø hoïc taäp vaø chuyeân tu

daitangkinh.vn

TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA

Giảng giải: Hòa Thượng Tịnh Không
 

TẬP BA - A
 

Thưa chư vị Pháp Sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống!

Xin xem Đại Kinh Giải, hàng thứ hai từ dưới đếm lên.

Chúng ta từ nhi kỳ trung chi Vô Lượng Thọ Kinh giả, nãi Tịnh Độ quần Kinh chi thủ yếu, Tịnh Tông đại đức thường xưng vi Tịnh Độ đệ nhất Kinh giả dã.

Nhưng trong ấy, Kinh Vô Lượng Thọ chính là Kinh đứng đầu, chủ yếu trong các Kinh Tịnh Độ. Các bậc đại đức trong Tịnh Tông thường gọi Kinh này là Kinh Tịnh Độ bậc nhất.

Trong phần trước, tôi đã nói với quý vị, câu này là do lão cư sĩ từ bi vô tận, trí huệ chân thật, vừa mở đầu, trong đoạn ngắn thứ nhất này, đã giới thiệu bộ Kinh Điển hy hữu này với chúng ta.

Trong đời này, chúng ta may mắn có thể nghe, có thể đọc, có thể y giáo phụng hành, chúng ta có thể nói giống như ông Bành Tế Thanh: Một ngày hiếm có khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay, ông ta nói nguyên văn như thế. Một ngày như vậy quá khó có.

Nói một ngày thì chúng ta phải nắm chắc ngày ấy, ngày ấy không chỉ là vĩnh viễn thoát ly luân hồi lục đạo, mà thưa cùng quý vị, còn là vĩnh viễn thoát ly mười pháp giới.

Thoát ly lục đạo luân hồi, nhưng chưa thoát ly mười pháp giới, do thoát ly mười pháp giới khá khó khăn. Sau khi có được pháp môn này, sẽ thoát ly mười pháp giới.

Ở đây nói là Tịnh Độ quần Kinh chi thủ yếu, đứng đầu, trọng yếu nhất trong các Kinh Tịnh Độ. Theo tôi thấy, không chỉ là Tịnh Độ, mà còn là đứng đầu, trọng yếu nhất trong các Kinh thuộc Đại Tạng Kinh.

Quý vị đều biết: Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là Kinh đứng đầu, trọng yếu nhất của Bát Nhã bộ, chẳng dài, hai trăm sáu mươi chữ.

Đức Phật nói Kinh Đại Bát Nhã suốt hai mươi hai năm, hai mươi hai năm giảng những gì?

Tâm Kinh triển khai thành bộ Đại Bát Nhã sáu trăm quyển, quy nạp lại, bèn thành hai trăm sáu mươi chữ này, bất tăng, bất giảm.

Nhưng Tịnh Độ Tông cũng có tâm Kinh, tâm Kinh là gì vậy?

Kinh cuối cùng trong Tịnh Độ ngũ Kinh là do Ấn Quang Đại Sư đề xuất, ghép vào sau Tịnh Độ tứ Kinh, trở thành Tịnh Độ ngũ Kinh.

Tôi thấy cử chỉ này, kinh ngạc khôn cùng, thật sự rất tuyệt, đấy chính là Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương trong Kinh Lăng Nghiêm.

Kinh Văn của chương này là bao nhiêu?

Còn ít hơn Bát Nhã Tâm Kinh, hai trăm bốn mươi bốn chữ. Bát Nhã Tâm Kinh có hai trăm sáu mươi chữ. Chương này có hai trăm bốn mươi bốn chữ, là Tâm Kinh của Tịnh Tông. Tịnh Tông là phần quan trọng hàng đầu trong giáo pháp của cả Đại Tạng Kinh.

Nói cách khác, Đại Thế Chí Bồ Tát Viên Thông Chương có thể nhiếp trọn vẹn hết thảy Kinh Giáo và vô lượng pháp môn do thập phương tam thế hết thảy Như Lai đã nói, thật đấy, chẳng giả đâu.

Viên Thông Chương dạy chúng ta: Bất giả phương tiện tự đắc tâm khai, chẳng nhờ vào phương tiện, tâm tự khai ngộ, đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế, nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối bèn thành công, bèn viên mãn. Đây là chỗ chẳng thể nghĩ bàn trong Phật Pháp, trong một đời này chúng ta được gặp gỡ, may mắn khôn sánh, phải giữ chắc. Nếu chẳng giữ lấy, đáng tiếc quá.

Quý vị luân hồi trong lục đạo, ngày nào mới có thể gặp được những thứ này?

Chúng ta lại đọc tiếp, Chí ư Phật Thuyết đại thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh giả, nãi Tiên Sư Hạ Liên Cư lão cư sĩ, hội tập Vô Lượng Thọ Kinh, Hán, Ngụy, Ngô, Đường, Tống, ngũ chủng nguyên dịch, quảng hiệt tinh yếu, viên nhiếp chúng diệu, hội thành kim Kinh, hiện thôi vi Vô Lượng Thọ Kinh chi thiện bổn giả dã.

Còn như Phật Thuyết đại thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh là do Tiên Sư là lão cư sĩ Liên Cư, hội tập năm bản dịch Kinh Vô Lượng Thọ trong các đời Hán, Ngụy, Ngô, Đường, Tống, chọn rộng rãi những chỗ tinh yếu, thâu tóm trọn vẹn các chỗ hay, hội tập thành bản Kinh này, nay được tôn là bản hoàn thiện nhất của Kinh Vô Lượng Thọ. Chuyện này không dễ dàng.

Thầy của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ là Cụ Hạ Liên Cư, Cụ Hoàng sanh trưởng trong một gia đình tin Phật Pháp, cậu của Cụ Hoàng là cư sĩ Mai Quang Hy. Trong thuở ấy, Phật Môn có câu Nam Mai, Bắc Hạ, nghĩa là trong giới tại gia học Phật, ở phía Nam, người bậc nhất là Cụ Mai Quang Hy.

Ở phương Bắc, người bậc nhất là Cụ Hạ Liên Cư. Câu Nam Mai, Bắc Hạ chỉ hai vị đại đức này. Hai người họ là đồng sự bao nhiêu năm, là đồng tham đạo hữu, quan hệ vô cùng thân thiết.

Hoàng Niệm Tổ là cháu được gởi sang bên Cụ Hạ, theo Cụ Hạ học Phật. Theo học hơn hai mươi năm, trở thành truyền nhân, là đệ tử truyền pháp của Cụ Hạ, trong Phật Môn chúng ta gọi là Pháp Tử. Bộ Kinh này do lão cư sĩ Hạ Liên Cư Hội Tập dựa trên năm bản dịch gốc trong các đời Hán, Ngụy, Ngô, Đường, Tống được bảo tồn trong Đại Tạng Kinh.

Nói về Triều Đại, Ngụy là nhà Tào Ngụy thuộc thời đại Tam Quốc, triều Ngô cũng thuộc thời Tam Quốc. Ngụy và Ngô đều thuộc thời đại Tam Quốc, cùng với các bản dịch thời Đường và Tống, tổng cộng là năm bản dịch gốc. Sự phiên dịch này sẽ được nói trong phần sau.

Với kỹ thuật ấn loát phát triển hiện tại, tìm năm bản dịch gốc chẳng khó khăn gì. Đừng nói chi thời cổ, ngay trong lúc tôi học Phật, tức sáu mươi năm trước.

Vào sáu mươi năm trước đây, ấn loát vẫn dùng chữ đúc bằng kim loại để sắp chữ, kể như đã tiến bộ lắm rồi, nhưng vẫn chẳng sánh bằng lối in bằng cách chụp ấn bản như hiện thời, hết sức thuận tiện.

Thuở ấy, thư tịch cũng chẳng dễ gì tìm được, rất khó tìm năm bản dịch này. Bản thường thấy nhất là bản dịch đời Ngô, tức bản của Ngài Khang Tăng Khải. Kinh Vô Lượng Thọ chỉ có bản này lưu thông bên ngoài nên hành nhân Tịnh Độ có thể đọc được, bốn bản kia rất ít lưu truyền.

Chúng ta rất khó đọc được cả năm bản dịch gốc, trừ phi tìm trong Đại Tạng Kinh, chứ không có bản lưu thông riêng. Theo cổ đại đức, năm bản dịch có nội dung sai khác rất lớn, có những điều được bản dịch này nói tới, bản dịch kia chẳng có.

Do vậy, cổ đại đức đã căn cứ trên chân tướng sự thật này để phán đoán: Đúng là trong thuở ấy, Đức Thế Tôn đã nhiều lần tuyên giảng Kinh Vô Lượng Thọ, nên mới có tình hình này. Nếu chỉ tuyên đọc một lần, người phiên dịch dẫu nhiều, nói chung, nội dung các bản dịch sẽ là đại đồng tiểu dị, chẳng sai biệt rất lớn.

Cách suy đoán này rất hợp với lý luận, chúng ta thừa nhận cách suy đoán ấy chính xác. Nhiều lần tuyên giảng, tỏ rõ pháp môn này trọng yếu. 

Thật đấy! Đặc biệt là trong thời kỳ mạt pháp, hết thảy chúng sanh có thể đắc độ trong một đời, có thể nói là chỉ có pháp môn này.

Chúng ta có thể nói: Về sau, Cụ Hoàng Niệm Tổ niệm Phật vãng sanh.

Lúc Cụ bệnh nặng, đã cậy bạn bè bảo cho tôi biết: Mỗi ngày Cụ niệm Phật mười bốn vạn tiếng, niệm Phật Viên tịch. Cụ là Kim Cang Thượng Sư bên Mật Tông, nhưng chẳng tu Mật Pháp, mà niệm Phật qua đời. Lão cư sĩ Hạ Liên Cư cũng là Hiển Mật viên dung, cuối cùng vãng sanh cũng là niệm Phật qua đời. Những vị này đều là biểu diễn cho chúng ta xem.

Hai câu kế đó gồm tám chữ nhằm giới thiệu đơn giản ưu điểm của bản hội tập này. Quảng hiệt tinh yếu nghĩa là toàn bộ những tinh hoa và phần khai thị quan trọng nhất trong năm bản dịch gốc đều thuộc trong bản hội tập này.

Do vậy, chúng ta có thể nói: Bản hội tập này là bản tổng hợp hoàn chỉnh của năm bản dịch gốc, Cụ Hạ đã thực hiện công tác này. Viên nhiếp chúng diệu, viên là viên mãn, lý, sự tinh diệu nhất trong năm bản dịch gốc đều được gom vào bộ Kinh này.

Hiện thôi vi Vô Lượng Thọ Kinh chi thiện bổn giả dã, được đề cao là bản Kinh Vô Lượng Thọ hoàn thiện nhất, ai đề cao?

Lão cư sĩ Hạ Liên Cư rất khiêm hư, đương nhiên Cụ sẽ ngượng ngùng, chẳng tự nói. Quả thật là so với ba bản hội tập trong quá khứ, cả ba bản hội tập ấy đều có tỳ vết, còn bản này chẳng tìm được một khuyết điểm nào, khó có lắm.

Người đề cao đầu tiên là lão Pháp Sư Huệ Minh, tức vị thầy quy y của Cụ Hạ Liên Cư. Đây là một vị xuất gia, là một vị lão Pháp Sư thông Tông lẫn thông Giáo, Hiển Mật viên dung.

Trong giới cư sĩ, người đầu tiên đề cao là Đại Sĩ Mai Quang Hy. Bản này truyền sang Đài Loan, cũng do một lão cư sĩ từ Sơn Đông mang sang Đài Loan. Phía trước bản này có một bài tựa rất dài. Chư vị thấy trong bản in hiện thời, bài ấy được in kèm vào phía sau Kinh.

Thầy Lý thấy đây là lời tựa do thầy của mình viết để giới thiệu, bèn hoan hỷ khôn sánh. Khi đó, thầy Lý mới ngoài sáu mươi, đại khái khoảng sáu mươi lăm tuổi, thấy bản này, bèn giảng tại Đài Trung một lần.

Bản này vừa mới được hội tập xong, được lưu thông với số ấn bản không nhiều lắm, đại khái chỉ in ba ngàn bản, số lượng không nhiều.

Sau khi bản này ra đời, đương nhiên chưa có ai viết Chú Giải. Về sau này, chỉ nghe nói có Pháp Sư Từ Châu là một vị Trưởng Lão bên Luật Tông, Sư là một vị đại đức trong Phật Môn vào đầu thời Dân Quốc, giảng bản này một lần tại Sơn Đông, lại còn viết khoa phán. Hoàng lão cư sĩ đã photocopy bản khoa phán này tặng cho tôi một quyển.

Tôi dựa theo bản khoa phán của Ngài, viết một bản khoa phán tỉ mỉ hơn, tôi có bản khoa hội này. Bản này được nhiều người tôn sùng như thế. Thầy Lý giảng bộ Kinh này, tự viết lời mi chú.

Đọc lời mi chú của thầy, tôi có thể hiểu nội dung của Kinh. Cụ phân chia Kinh Văn thành từng đoạn, nêu đại ý mỗi đoạn, đó chính là khoa đề, tựa đề của từng khoa nhằm nêu rõ nội dung.

Vì thế, lần đầu tôi giảng bộ Kinh này tại Mỹ, đã dựa theo lời mi chú của thầy. Hình như đã giảng chừng hai ba lần rồi mới gặp lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, Cụ tặng tôi bản Chú Giải này.

Trong phần trước, tôi đã thưa cùng quý vị, Cụ tặng tôi bản in bằng ronéo, in trên giấy thường, chữ in trong ấy lờ mờ, bản in như vậy đó.

Khi ấy, Cụ Hoàng trở về Bắc Kinh, tôi bèn cậy người thỉnh giáo Lão nhân gia xem Cụ có giữ bản quyền hay không. Nếu Cụ giữ bản quyền, chúng tôi rất tôn trọng Cụ. Nếu không giữ bản quyền, tôi chuẩn bị in thành sách, chính thức lưu thông tại Đài Loan.

Cụ phúc đáp: Không giữ bản quyền, lại muốn tôi viết lời tựa, muốn tôi ghi tựa đề cho tác phẩm này. Vì thế, chúng tôi in lần đầu một vạn bộ tại Đài Loan, bản này bèn được lưu thông tại hải ngoại. Tịnh Tông Học Hội do Cụ Hạ đề xướng.

Phật Pháp muốn hoằng dương trong xã hội hiện đại, cần phải có chánh danh, danh xưng chính đáng như câu nói: Danh bất chánh, tắc ngôn bất thuận. Danh chẳng chính đáng, chẳng thể nói lọt tai. Trong quá khứ, vào thời cổ, Đạo tràng nhà Phật đều gọi là Tự Viện, Am, Đường, dùng danh xưng này.

Người hiện thời thấy danh xưng ấy bèn ngỡ là Tôn giáo, cho là mê tín. Do vậy, Cụ Hạ đề ra chánh danh, danh bất chánh, tắc ngôn bất thuận rất có lý. Tôi nghe xong, hoan hỷ, hết sức tán thành.

Cụ nói Đạo tràng là nơi đại chúng cùng nhau tu hành, hãy nên gọi là Học Hội. Tịnh Độ Tông thì Tịnh Tông Học Hội, Hoa Nghiêm Tông thì gọi là Hoa Nghiêm Học Hội, Tông Thiên Thai dùng danh xưng Thiên Thai Học Hội, dùng chữ Học Hội.

Cơ cấu giáo học dùng chữ Học Viện, tuyệt lắm. Người ta vừa nhìn, liền biết đây là cơ cấu giáo dục, chẳng đến nỗi dính dáng mê tín, đề nghị này hết sức hay. Nhưng sau khi đề ra, chưa từng thiết lập trong nước, chẳng chính thức thành lập.

Vì thế, Cụ Niệm Tổ dặn tôi hãy thành lập tại hải ngoại: Ông giảng Kinh, hoằng pháp các nơi, hy vọng ông có thể thành lập bộ môn Tịnh Tông Học Hội ở các nơi. Tịnh Tông Học Hội đầu tiên được thành lập ở Vancouver là Gia Nã Đại Tịnh Tông Học Hội, hiện thời vẫn còn.

Thứ hai là Mỹ Quốc Tịnh Tông Học Hội được thành lập tại Sunnyvale, San Jose, California, hiện vẫn còn tồn tại, do cư sĩ Dương Nhất Hoa chủ trì. Sau đấy, tại Mỹ và Gia Nã Đại, tôi thành lập tổng cộng hơn ba mươi hội, chắc là hiện thời vẫn còn, cũng có nơi chẳng còn. Tôi nghĩ là phải có mười mấy hội tại Mỹ và Canada.

Thành lập nhiều nhất là ở Malaysia. Quốc Gia Malaysia không lớn, nay sợ rằng có hơn một trăm Tịnh Tông Học Hội, gần tới hai trăm hội, nơi ấy có nhiều nhất.

Một nơi khác nữa là Âu Châu. Tôi biết ở Âu Châu, tại các quốc gia chủ yếu, gần như đều có Học Hội, chẳng hạn như Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha đều có. Tại Úc Châu hình như có mười mấy chỗ. Trên thực tế, Tịnh Tông Học Hội có tánh chất không khác gì liên xã thuở xưa, chỉ là thay đổi tên gọi.

Học hội không có tổ chức, không có quyền quản trị theo hàng dọc. Cho nên nhân sự, Đại Sư, hành chánh của các học hội hoàn toàn độc lập. Phàm là Tịnh Tông Học Hội, chúng ta đều là đồng đạo, đồng môn hữu nghị, quan hệ hữu nghị.

Các hoạt động theo quy mô lớn khi được yêu cầu, chúng ta đều góp sức, hỗ trợ hợp tác, không giống những giáo hội thông thường.

Họ có tổng hội, phân hội, chúng ta không có. Chúng ta không có hội nào là tổng hội, hay hội nào là phân hội, không có. Mỗi hội đều lớn như nhau, đều là bậc nhất, không có bậc nhì.

Thuở Đức Thế Tôn tại thế, dạy học bốn mươi chín năm, Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng lập một tổ chức nào, thậm chí một trường học cũng chẳng mở, cũng chẳng có lớp học nào.

Tinh thần này tốt đẹp, thật sự thanh tịnh, bình đẳng, giác, chúng ta phải biết vĩnh viễn gìn giữ, phát dương quang đại, hòng hoàn toàn tương ứng với tánh đức. Đây là nói thêm về lòng yêu thương của các vị lão nhân đối với hậu thế, chỉ dạy chúng ta nên làm như thế nào trong thời đại này. Ấn Quang Đại Sư nói càng hay hơn nữa.

Tổ Ấn Quang nói: Trong thời kỳ mạt pháp, cũng là nói trong thời đại hiện tại này, Đạo tràng không nên quá lớn, đồng học chớ nên quá đông.

Ngài dạy chúng ta: Tốt nhất là đồng học đừng nhiều hơn hai mươi người. Đúng thế, trong xã hội hiện thời, cách này hay lắm, chi tiêu ít, hai ba vị hộ pháp khá giả sẽ có thể chiếu cố Đạo tràng.

Điều kiện đầu tiên của người tu hành là: Thân an ổn, đạo mới hưng thịnh. Quý vị muốn thân và tâm yên ổn, hết thảy đều phải đơn giản hóa. Nếu đơn giản, sẽ chẳng cầu cạnh ai, không sợ khổ. Đức Phật dạy chúng ta hai điều kiện.

Lúc sắp Viên Tịch, Thích Ca Mâu Ni Phật dạy các đệ tử hai điều kiện từ nay trở đi: Thứ nhất là phải trì giới, lấy giới làm thầy. Thứ hai là lấy khổ làm thầy. Quý vị không thể chịu khổ, chẳng thể trì giới, sẽ chẳng đạt được gì, nếu có đạt được điều gì, đó là giả, chẳng thật.

Hai câu khai thị này quan trọng hơn bất cứ điều gì khác, chúng ta có làm được hay không?

Vì lẽ gì người thuở trước có thể làm được?

Cuối đời Thanh, đầu thời Dân Quốc, mọi người đều có thể làm được, vì sao người hiện thời không thể làm được?

Tôi suy nghĩ vấn đề này rất lâu, tôi đã tới rất nhiều nơi, gặp rất nhiều bạn học Phật trong nhà Phật chúng ta, kẻ tại gia không hành thập thiện nghiệp, hàng xuất gia không hành Sa Di Luật Nghi, chúng tôi cảm thấy rất tiếc nuối.

Chúng ta truy tìm nguyên nhân vì đâu?

Truy tới cuối cùng, tìm ra căn nguyên: Thiếu giáo dục. Vào cuối đời Thanh, đầu thời Dân Quốc, tức là khoảng từ năm Dân Quốc 20, 1931 trở về trước, tuy truyền thống văn hóa đã suy vi, ít người nói tới, nhưng vẫn có người nhắc tới, vẫn có người làm chuyện này, nên còn có cội rễ.

Cũng có thể nói là gia giáo chưa hoàn toàn đoạn tuyệt, gia giáo tại Trung Quốc là giáo dục tư thục. Quê chúng tôi là đất văn hóa thịnh vượng vào thời cổ, phái văn học Đồng Thành thuộc quê hương chúng tôi, trong hai thời Minh và Thanh đã xuất hiện rất nhiều người tài năng.

Tại nông thôn, trong các thôn trang, trẻ nhỏ đều đi học, gần như không có trẻ nhỏ thất học, trường học mở trong các từ đường. Do có căn bản này, nên từ nhỏ đã học biết quy củ, đọc các sách cổ, có căn bản, tức là có căn bản về Nho Học, có căn bản đạo đức. Đạo ở đây chính Thái Thượng Cảm Ứng Thiên.

Đạo tràng phổ biến nhất của Đạo Gia là Miếu Thành Hoàng, sự giáo dục quan trọng nhất trong ấy là Thập Vương Điện, tức điện thờ Thập Điện Diêm Vương, dạy điều gì?

Dạy nhân quả. Phụ nữ ở nông thôn mỗi năm đến Miếu Thành Hoàng dâng hương cũng phải bốn năm lượt.

Thuở nhỏ, tôi theo mẹ, khi đó, hãy còn rất bé, độ năm sáu tuổi, tới Miếu Thành Hoàng thắp hương, cha mẹ có cơ hội giáo dục, bảo chúng tôi: Khởi tâm động niệm, lời nói, việc làm, cử chỉ đều đừng nên phạm tội. Phạm tội thì con thấy hình phạt là núi đao, vạc dầu. Nói dối bị rút lưỡi.

Ấn tượng này rất sâu, suốt đời cũng không thể quên. Lớn lên, khởi tâm động niệm bèn nghĩ đến Miếu Thành Hoàng, có những chuyện quý vị chẳng dám làm.

Cổ nhân Trung Quốc nói: Thiểu thành nhược thiên tánh, tập quán thành tự nhiên. Tập luyện từ nhỏ sẽ trở thành tánh tình giống như bẩm sinh, do thói quen trở thành tự nhiên.

Giáo dục được dưỡng thành từ nhỏ, sanh hiệu quả rất lớn. Gặp chuyện, quý vị sẽ suy nghĩ xem chuyện này có nên làm hay không, sau này còn có nhân quả ra sao, cho nên kinh sợ. Vì vậy, học Phật, Tam quy, Ngũ giới, Thập thiện rất dễ tiếp nhận, rất dễ làm được.

Hiện thời vì sao khó khăn dường ấy?

Giáo dục cơ sở truyền thống, giáo dục đặt nền tảng căn bản đã bị vứt bỏ. Chúng ta đánh nhau với Nhật Bản tám năm, sự giáo dục căn bản này bị bỏ mất, tôi cảm thấy tổn thất khôn sánh.

Sau này, chúng tôi dần dần tiếp xúc Phật Pháp, quay trở về truyền thống văn hóa, nhận biết mối quan hệ giữa Nho, Thích và Đạo hết sức mật thiết, vĩnh viễn chẳng có cách nào tách rời. Sau khi tiếp xúc bèn hiểu rõ, biết truyền thống văn hóa thật tốt đẹp.

Trên khắp Thế giới không tìm đâu ra. Sau khi quý vị học rồi, mới thật sự yêu thương đất nước, yêu thương dân tộc, khắp Thế giới không tìm đâu ra được nơi nào có mối quan hệ này.

Nhiều năm qua, chúng tôi tới nhiều quốc gia, qua lại với người ngoại quốc, biết mình, biết người, chúng ta hiểu ưu điểm lẫn nhược điểm của họ.

Họ biết nhược điểm của người Trung Quốc, nhưng không biết ưu điểm, trừ một số ít nghiên cứu văn hóa và lịch sử Trung Quốc là hiểu được, không ai chẳng bội phục. Đó là truyền thống văn hóa giáo dục nhân tánh, họ bội phục.

Như học giả Thang Ân Tỷ Arnold J. Toynbee đã nói rành rẽ: Giải quyết vấn đề xã hội trong thế kỷ hai mươi mốt, chỉ có học thuyết Khổng Mạnh và đại thừa Phật Pháp, người Anh đã nói như thế đó. Đúng vậy, chẳng giả tí nào. Tôi tham dự hội nghị hòa bình do Liên Hợp Quốc chủ trì mười mấy lần.

Hiện thời, quốc tế và xã hội quá rối ren, gần như đã tới tình trạng không thể vãn hồi, làm thế nào đây?

Do vậy, khi tôi giảng diễn tại Kiếm Kiều Cambridge, đã hỏi các đồng học: Người Anh nói như thế đó, những thứ trong Nho Gia và đại thừa Phật Pháp thật sự có thể giải quyết vấn đề hay chăng?

Các đồng học cười, không ai trả lời.

Tôi lại hỏi: Hóa ra Tiến Sĩ Thang Ân Tỷ nói trật lất rồi sao?

Cũng chẳng có ai nói gì.

Cuối cùng, tôi nêu quan điểm của mình, tôi nói: Ông Thang Ân Tỷ nói không sai, đại khái là do chúng ta đã đọc và hiểu sai.

Vì sao?

Đối tượng nghe tôi nói chuyện đều là sinh viên ngành Hán Học, đều nghiên cứu văn hóa truyền thống của Trung Quốc, nghiên cứu rất nghiêm túc, chúng ta chẳng thể không bội phục.

Rất nhiều sinh viên thuộc lòng Luận Ngữ, tôi không thuộc Luận Ngữ, hoàn toàn thua họ. Họ dùng Kinh Điển Nho Gia hay Kinh Phật để viết luận án tiến sĩ. Trong đó, có một sinh viên cho tôi biết anh ta dùng Kinh Vô Lượng Thọ để viết luận án tiến sĩ.

Tôi nói: Kinh Vô Lượng Thọ có chín phiên bản khác nhau, anh dùng bản nào?

Anh ta dùng bản hội tập của Cụ Hạ Liên Cư, cùng một bản như chúng ta đang học.

Tôi nói: Ngày hôm nay chúng tôi nhắc tới Khổng Mạnh, ngay lập tức quý vị nghĩ đến Tứ Thư, Ngũ Kinh, mười ba Kinh, nghĩ đến những sách ấy. Nói đến đại thừa Phật Học, nhất định sẽ nghĩ đến Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Bát Nhã.

Những Kinh Điển đại thừa ấy đối với các vị rất quen thuộc, chúng có thể giải quyết vấn đề xã hội trong hiện tại hay không?

Không ai dám nói gì. Tôi bảo họ, nghĩ như vậy là hiểu lầm. Nhắc tới văn hóa truyền thống của Trung Quốc, quý vị đều nghĩ tới những sách vở mang tánh chất đại biểu, không sai.

Tứ Thư, Ngũ Kinh, mười ba Kinh là đại biểu cho Nho Gia. Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Bát Nhã, Pháp Tướng là đại biểu của đại thừa Phật Pháp, đúng vậy.

Những thứ ấy là hoa quả, thật đẹp, thật ưa nhìn, hoa quả từ đâu ra?

Mọc trên cành nhánh.

Cành nhánh do đâu mà có?

Cành nhánh có cội rễ.

Cội rễ là gì?

Cội rễ của Phật Pháp là Thập thiện nghiệp đạo. Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo chẳng dài.

Trong Kinh, Đức Phật đã giảng rất rõ ràng: Thập thiện nghiệp đạo giống như đại địa, cây cối, hoa, cỏ, đều sanh từ mặt đất. Như vậy mới là đã tìm được cội rễ. Đức Phật dùng điều này làm tỷ dụ. Pháp Nhân Thiên, Thanh Văn bồ đề, Duyên Giác bồ đề, cho đến Vô Thượng bồ đề, đều sanh từ đại địa này, tìm được cội rễ rồi.

Cội rễ của Khổng Mạnh là gì?

Cội rễ của Khổng Mạnh là Đệ Tử Quy. Cội rễ của Đạo Giáo là Thái Thượng Cảm Ứng Thiên. Ba thứ này không ai nghĩ đến. Những thứ này có thể sanh ra Tứ Thư, Ngũ Kinh, mười ba Kinh, có thể sanh ra hết thảy các Pháp đại thừa, sanh từ đây. Quý vị tìm những thứ này, học từ đây, hạ công phu là được, thật sự cứu được. Để cứu xã hội hiện thời, ba loại cội rễ này sẽ hữu dụng.

Hiện thời, chúng tôi nghĩ tai nạn rất nhiều, trong Kinh Luận, Đức Phật đã dạy chúng ta: Nếu một địa phương có Đạo tràng, một Đạo tràng thật sự, chẳng giả.

Đạo tràng thật sự là gì?

Là Lục hòa kính.

Quý vị thấy khi chúng ta thọ trì Tam Quy, quy y Tăng, chúng trung tôn, phải đọc lời thề này, câu này có nghĩa là gì?

Tăng là Tăng đoàn, là đoàn thể.

Đoàn thể như thế nào sẽ được gọi là Tăng đoàn?

Tăng đoàn không nhất định là người xuất gia. Mọi người học Phật nhất định phải hiểu rõ điều này. Từ bốn người trở lên, sống cùng một chỗ, đều tu Lục hòa kính thì gọi là Tăng đoàn, hay hòa hợp chúng.

Chúng là từ bốn người trở lên, người Trung Quốc gọi ba người là chúng, nhưng trong Phật Pháp, bốn người gọi là chúng. Bốn người ấy nếu là gia đình của quý vị, gia đình quý vị có bốn người, trong gia đình tu Lục hòa kính thì gia đình quý vị là Tăng đoàn.

Tăng đoàn sanh ra hiệu quả gì?

Thập Phương Chư Phật hộ niệm, hết thảy Long Thiên Thiện Thần ủng hộ. Nơi nào có đoàn thể này, nơi ấy không có tai nạn, thật đấy, chẳng giả đâu. Do vậy, Tăng không phải chỉ riêng người xuất gia.

Chư vị phải biết: Xuất gia và tại gia đều như nhau, bốn người cùng tu hành một chỗ là Tăng đoàn.

Lục hòa kính là gì?

Chúng ta cũng treo những điều này phía ngoài lầu mười, quý vị vào đó sẽ thấy: Kiến hòa đồng giải, giới hòa đồng tu, thân hòa đồng trụ, khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt, lợi hòa đồng quân, sáu điều ấy.

Phải làm thế nào mới có thể thực hiện những điều ấy?

Thưa quý vị, thực hiện ba món căn bản của Nho, Thích, Đạo như đã nói trên, sẽ thực hiện được Lục hòa kính. Nếu trong đoàn thể nhỏ này, chúng ta thực hiện Đệ Tử Quy, thực hành Cảm Ứng Thiên, thực hành Thập Thiện Nghiệp, sẽ là Tăng đoàn hòa hợp. Đoàn thể nhỏ này có số lượng từ bốn người trở lên.

Nếu nhiều thì chẳng hạn chế số lượng, tu hành trong Đạo tràng này, Đạo tràng này được thập phương Chư Phật hộ niệm, tất cả long thiên thiện thần phù hộ.

Có Đạo tràng như vậy hay không?

Tôi học Phật năm mươi chín năm rồi mà chưa hề thấy. Không chỉ là chưa thấy, mà cũng chưa nghe nói tới. Tôi chỉ nghe nói hai người xuất gia ở cùng một chỗ hằng ngày đều cãi nhau, đau buồn thay.

Hiện nay lắm tai nạn như thế, nếu xuất hiện một Tăng đoàn như vậy, Hương Cảng có một Tăng đoàn như vậy xuất hiện, cả khu Hương Cảng này sẽ chẳng có tai nạn.

Quý vị có chịu phát tâm hay không?

Chúng tôi đề nghị: Người thật sự phát tâm hãy ghi danh, ký tên. Trước đó, phải suy nghĩ cẩn thận, thật sự thực hiện. Nếu không làm, đừng bỡn cợt. Đùa bỡn tội rất nặng. Chúng ta chẳng thể đòi hỏi người khác, phải từ chính mình làm, từ bản thân làm, làm từ Đạo tràng nhỏ này của chúng ta.

Tôn trọng Đạo tràng của người khác, quyết định chẳng phê bình, quyết định không can thiệp, quyết định chẳng nói người khác là sai, hết thảy hãy từ chính mình mà làm, từ Đạo tràng nhỏ của chúng ta mà làm.

Hãy xem Đạo tràng nhỏ của chúng ta có ai ghi tên hay không?

Có người phát tâm thật sự làm hay không?

Tai nạn lắm như vậy, làm thế nào để cứu khu vực Hương Cảng?

Nếu Hương Cảng không có tai nạn, tôi tin tưởng vùng duyên hải Trung Quốc sẽ không có tai nạn.

Hướng ra ngoài, từ Nhật Bản, Hàn Quốc tới Đài Loan, Phi Luật Tân, dưới là đến Việt Nam, những khu vực này cũng chẳng có tai nạn, quý vị nói xem công đức này nhiều lắm.

Hoàn toàn do chính mình có chịu phát tâm hay không, chịu thật sự làm hay không?

Lão cư sĩ Hạ Liên Cư suốt đời thường nói hai chữ này, chân cán thật sự làm. Thật sự thực hành ba thứ căn bản ấy, chúng ta quy y Kinh Vô Lượng Thọ.

Quy là quay đầu, y là dựa vào, dựa vào đạo lý được giảng trong Kinh Vô Lượng Thọ, nương theo phương pháp giảng trong Kinh Vô Lượng Thọ, nghiêm túc tu hành, không ai chẳng sanh Tịnh Độ. Sanh vào Tịnh Độ là thành Phật trong một đời. Nói cách khác, quý vị thành Phật trong đời này, công đức viên mãn.

Nhưng quý vị phải ghi nhớ: Muốn thật sự viên mãn, ba món căn bản này rất trọng yếu.

Có người cho tôi biết dường như người chẳng có ba căn bản này, nghe nói cũng vãng sanh, có tình hình này hay không?

Có. Nhưng ba căn bản của người ấy chẳng lộ rõ.

Người ấy có hay không?

Chắc chắn là có.

Nếu không, làm sao có thể vãng sanh, đâu có lẽ này?

Nói tới một bà Cụ già niệm Phật vãng sanh, suốt đời cũng chưa hề học Phật, cũng chẳng hề học Đạo, mà cũng chẳng hề học Nho, chuyện gì cũng chẳng biết.

Quý vị lấy tiêu chuẩn của Đệ Tử Quy để xem xét, bà Cụ có phạm một điều nào hay chăng?

Quý vị nghiêm túc kiểm tra, bà Cụ chẳng phạm một điều nào, tuy chưa từng học. Thập thiện nghiệp chưa hề học, nhưng người này đúng là thiện nhân, trọn đủ.

Quý vị quan sát cẩn thận, mới phát hiện: Người vãng sanh, người niệm Phật vãng sanh, bất luận có học hay không, biết chữ hay không, đều là người rất có đức hạnh, đều thật sự là thiện nhân mới có thể vãng sanh. Kẻ tâm hạnh chẳng lành, lắm mưu mô, rất khó vãng sanh.

Vì sao?

Quý vị chẳng thể đến Thế Giới Cực Lạc là nơi chư thượng thiện nhân hội họp.

Quý vị vẫn dấy lòng tính toán, làm sao có thể vãng sanh cho được?

Quý vị khởi tâm động niệm, Phật, Bồ Tát biết ngay, chư thượng thiện nhân ai nấy đều biết.

Thật à?

Thật đấy.

Sách Hoàn Nguyên Quán dạy chúng ta thế này: Trong tâm của hết thảy chúng sanh vừa mới dấy một niệm, niệm ấy bèn trọn khắp pháp giới. Tốc độ quá nhanh, xứng tánh, nhưng bản thân chúng ta không biết.

Bất luận niệm gì, chỉ cần niệm vừa dấy lên, sẽ có ba thứ trọn khắp:

Thứ nhất là tin tức này trọn khắp pháp giới.

Thứ hai là xuất sanh vô tận.

Thứ ba là chứa đựng cả không lẫn có. Trong một niệm bèn có ba thứ trọn khắp.

Quý vị không có cách nào tưởng tượng phạm vi trọn khắp ấy, người Trung Quốc có hai câu nói hình dung hết sức hay: Kỳ đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội, không có gì lớn mà ra ngoài, không có gì nhỏ mà chẳng lọt vào trong. Hai câu này rất nhiều người nghe đã quen tai, cũng đều có thể nói, nhưng trên thực tế, rất khó nói rõ ý nghĩa. Kỳ đại vô ngoại là không có ngằn mé, nhưng kỳ tiểu vô nội khó hiểu.

Kinh Hoa Nghiêm đã giảng rất hay, thế nào là vô nội?

Trong một hạt vi trần có thế giới, thế giới như thế nào?

To như thế giới bên ngoài. Trong vi trần có thế giới, thế giới trọn chẳng rút nhỏ, vi trần chẳng phình to, vẫn như vậy, chẳng lớn hay nhỏ. thế giới trong vi trần lại có vi trần, trong vi trần lại có thế giới, trùng trùng vô tận, gọi là kỳ tiểu vô nội.

Quý vị truy tìm đến tột cùng được chăng?

Tìm không được, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.

Đức Phật chẳng nói dối, vì sao?

Quý vị kiến tánh sẽ thấy được, bèn hiểu rõ. Quý vị chưa kiến tánh, nghĩ cách nào cũng nghĩ không ra, đều chẳng thể tư duy được. Do vậy, gọi là chẳng thể nghĩ bàn, tức là chẳng thể nghĩ, chẳng thể tưởng, cũng chẳng có cách nào bàn luận, xứng tánh mà.

Thứ gì chẳng xứng tánh?

Thứ nào cũng đều xứng tánh, chỉ là do chúng ta mê, nên bất giác. Ở đây nói tới bản hay nhất, bản tiêu chuẩn tốt nhất, trong bản này không có chữ sai.

Sợ nhất là sách bị sai chữ, trong bản này không có chữ sai, đó chính là bản tốt nhất. Nghĩa lý chẳng bị khiếm khuyết, lớp lang hoàn chỉnh, phương pháp tinh tế. Chiếu theo lý luận và phương pháp này tu hành, quý vị có thể đạt được lợi ích chân thật.

Lợi ích chân thật quan trọng nhất là: Quý vị liễu giải chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, liền khế nhập cảnh giới, đó gọi là liễu nghĩa rốt ráo.

Chúng ta thường gọi khế nhập cảnh giới là chứng quả hay thành Phật, có ý nghĩa như vậy. Chúng ta xem câu tiếp theo. Vô Lượng Thọ Kinh nãi Tịnh Tông chi tổng cương.

Kinh Vô Lượng Thọ là tổng cương lãnh của Tịnh Tông: Cương là cương lãnh, tổng cương là tổng cương lãnh. Do vậy, được gọi là Tịnh Tông đệ nhất Kinh. Kinh Tịnh Tông không nhiều lắm.

Trong tất cả các tông phái, chỉ có Tịnh Độ Tông là Kinh Điển ít nhất, chỉ có ba bộ Kinh, một bộ luận, đó là nói về lúc xưa. Ba bộ Kinh, thứ nhất là Kinh Vô Lượng Thọ, thứ nhì là Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, còn gọi là Thập Lục Quán Kinh, thứ ba là A Di Đà Kinh, phân lượng đều rất ít.

Một Luận là vãng sanh Luận của Thiên Thân Bồ Tát, Tam Kinh nhất Luận. Một Luận chính là báo cáo tâm đắc về việc tu Tịnh Độ, vãng sanh Thế Giới Cực Lạc của Thiên Thân Bồ Tát để chúng ta tham khảo.

Hiện thời thì sao?

Hiện thời là Ngũ Kinh Nhất Luận, Ngũ Kinh do đâu mà có?

Ba Kinh là do Phật nói, Ngũ Kinh là trong niên hiệu Hàm Phong Nhà Thanh. Vợ Vua Hàm Phong là Từ Hy Thái Hậu mọi người đều biết, nói đến Hàm Phong thì chẳng mấy ai biết đến.

Nói Từ Hy Thái Hậu rất nhiều người biết, chồng Từ Hi Thái Hậu là Hàm Phong. Trong niên hiệu Hàm Phong, cư sĩ Ngụy Mặc Thâm, trong phần sau sẽ giới thiệu, vị lão cư sĩ này cũng rất giỏi, đem quyển cuối cùng của Kinh Hoa Nghiêm.

Không phải là một phẩm, quyển cuối cùng của Kinh Hoa Nghiêm là Mười Đại Nguyện Vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc, đem quyển cuối cùng này của Kinh Hoa Nghiêm, tức là rút ra một chương trong một phẩm này, ghép vào sau Tịnh Độ Tam Kinh, trở thành Tịnh Độ Tứ Kinh.

Do vậy, nếu sau này, quý vị thấy trong Phật Môn có Tịnh Độ Tứ Kinh, quý vị biết đó là do ông Ngụy Mặc Thâm thêm vào. Thêm hay lắm.

Vì sao thêm vào rất hay?

Trong Kinh Vô Lượng Thọ, đặc biệt là trong bản hội tập của Cụ Hạ, chúng ta thấy phẩm thứ hai là Đức Tuân Phổ Hiền, một chương ấy. Quả thật Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng trở về Tịnh Độ, trở về Kinh Vô Lượng Thọ. Do vậy, ông ta thêm thiên ấy vào hay lắm. Đó là Tịnh Độ Tứ Kinh.

Ngũ Kinh là do Ấn Quang Đại Sư đề xướng, vị này thuộc thời cận đại, Ấn Quang Đại Sư cách chúng ta không xa, năm Dân Quốc hai mươi mấy Ngài mới vãng sanh trong thời gian Kháng Chiến.

Ngài đem chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương trong phần hai mươi năm Pháp Viên Thông của Kinh Lăng Nghiêm, đem đoạn Kinh Văn ngắn này ghép vào sau Tịnh Độ Tứ Kinh, biến thành Tịnh Độ Ngũ Kinh. Cách làm này chẳng thể nghĩ bàn.

Tịnh Độ có cần thêm Kinh Điển nào khác nữa hay không?

Không cần. Đến đây là đã viên mãn.

Vì sao?

Hai trăm bốn mươi bốn chữ, tôi đã nói với quý vị, đó là Tâm Kinh của Tịnh Độ Tông, mà cũng là Tâm Kinh của toàn bộ giáo pháp trong Đại Tạng Kinh.

Đấy cũng là như Thiện Đạo Đại Sư, Lão nhân gia thường nói: Chư Phật sở dĩ xuất hiện trong thế gian chỉ vì để nói biển bổn nguyện của Phật Di Đà. Cách làm này của Ấn Quang Đại Sư đã khiến cho chúng ta hoàn toàn hiểu rõ câu nói ấy của Thiện Đạo Đại Sư.

Phương pháp bậc nhất của hết thảy Chư Phật ứng hóa trong mười pháp giới, phổ độ chúng sanh trong mười pháp giới của hết thảy các Cõi Phật là gì?

Là trì danh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, thích hợp khắp ba căn, gồm thâu độn căn lẫn lợi căn, đó là pháp môn tuyệt diệu. Cực đơn giản, dễ dàng, ổn thỏa, thích đáng, ai cũng có thể tu, ai cũng đều có thể thành tựu. Thiện Đạo Đại Sư nói pháp môn này vạn tu, vạn người đến, chẳng sót một ai.

Vì sao người tu Tịnh Độ đông như thế, người vãng sanh ít như vậy?

Có mâu thuẫn với lời nhận định của Thiện Đạo Đại Sư hay không?

Thưa quý vị, không.

Do nguyên nhân nào?

Quý vị tu hành chẳng đúng pháp, đúng lý. Lỗi tại quý vị, chẳng phải do pháp môn, không do Kinh Điển. Nếu quý vị tu đúng pháp, đúng lý, thật sự là vạn người tu, vạn người đến chẳng sót một ai.

Kinh Di Đà đã dạy rất rõ ràng: Không thể dùng chút thiện căn, phước đức, nhân duyên để sanh về cõi ấy.

Thiện căn là gì?

Phước đức là gì?

Nhân duyên là gì?

Nay chúng ta trọn đủ nhân duyên, được làm thân người là nhân duyên, gặp Phật Pháp là nhân duyên, gặp đại thừa là nhân duyên, gặp Kinh Hoa Nghiêm, gặp Tịnh Độ là nhân duyên phi phàm, duyên trọn đủ.

Vấn đề ở đâu?

Thiện căn, phước đức.

Thiện căn là gì?

Tín giải.

Quý vị có thật sự tin tưởng hay không?

Đối với pháp này, quý vị còn có vấn đề nào hay không?

Nếu còn có hoài nghi, thiện căn của quý vị có vấn đề.

Quý vị có hiểu rõ đạo lý Tịnh Tông hay không?

Không thấu triệt, hiểu rõ. Hiểu rõ sẽ giúp quý vị tin tưởng. Sở dĩ quý vị có hoài nghi là do chưa lý giải thấu triệt. Thật sự hiểu rõ, minh bạch, sẽ chẳng hoài nghi. Quý vị có tín giải, tín giải là thiện căn.

Phước đức là gì?

Thật sự hành. Người thật sự hành có phước đức. Quý vị chẳng thật sự hành, vẫn chưa buông thế gian này xuống được, còn lưu luyến, vậy là xong luôn.

Quý vị cũng rất khó thành tựu. Vì thế, Kinh không có khuyết điểm, lý luận và phương pháp đều không có khuyết điểm. Khuyết điểm là do phiền não và tập khí của chính mình. Nếu buông những thứ ấy xuống, chắc chắn quý vị đạt được Tịnh Độ ngay trong một đời này.

Tiếp đó, Cụ Hoàng Niệm Tổ trích dẫn lời ông Bành Thiệu Thăng, Bành Tế Thanh: Ngã quốc Thanh đại Bành Thiệu Thăng cư sĩ tán viết Vô Lượng Thọ Kinh giả, Như Lai xứng tánh chi Viên giáo, chúng sanh bổn cụ chi hóa nghi, vào đời Thanh, cư sĩ Bành Thiệu Tăng của nước ta đã ca ngợi. Kinh Vô Lượng Thọ là Viên giáo xứng tánh của Như Lai, là cơ nghi hóa độ chúng sanh sẵn có. Mấy câu này hết sức quan trọng.

Như Lai là những vị minh tâm kiến tánh trong mười phương, đó là Chư Phật Như Lai. Kinh Vô Lượng Thọ là lời bàn luận xứng tánh, từng câu, từng chữ đều từ tự tánh lưu lộ, từng câu, từng chữ đều viên mãn, nên gọi là Viên giáo. Tự tánh của hết thảy Chư Phật Như Lai và tự tánh của hết thảy chúng sanh là một tánh, chẳng phải hai tánh.

Do vậy, trong giáo pháp đại thừa, Đức Phật nói đến tự tánh thường thường dùng biển làm tỷ dụ, chẳng hạn như tánh hải.

Mỗi một chúng sanh khác nhau giống như một bọt nước trong biển cả, bọt nước do đâu mà sanh ra?

Từ biển sanh ra. Từng bọt nước nếu không bị vỡ tan, dường như có đối lập. Chỗ này là một bọt, chỗ kia là một bọt khác. Sau khi bọt nước vỡ tan, tất cả đều là biển cả. Người thông minh chẳng cần chờ đến lúc bọt nước vỡ, toàn là nước biển, mỗi bọt nước đều là nước biển, nước biển là tự tánh.

***