Giaùo duïc cuûa Ñöùc Phaät laø giaùc ngoä töï taùnh
Kinh Ñieån Phaät Thuyeát vieân maõn ñuùng nghóa laø hoïc taäp vaø chuyeân tu

daitangkinh.vn

PHÁP NGHI QUỸ TÔN THẮNG

PHẬT ĐỈNH TU DU GIÀ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thiện Vô Uý, Đời Đường
 

PHẨM SÁU

PHẨM TU DU DÀ BỔN TÔN CHÂN NGÔN
 

Lại nữa, ta nay lược nói pháp tu Bổn Tôn chân ngôn. Mỗi tháng ngày rằm tự tụng hoặc nhờ tụng mãn một ngàn biến, hay trừ tất cả tai ương, tăng trưởng thọ mạng, phước đức.

Hoặc mỗi ngày ba thời quán Bổn Tôn nơi tâm nguyệt luân, hoặc tưởng tự thân là Bổn Tôn nơi tâm nguyệt luân.

Xoay vòng an bố Tôn Thắng chân ngôn như tự luân hình chữ chạy theo vòng tròn. Khi trì tụng, tưởng màu sắc đều tương ứng, đều biến thành Mạn Đà La Thánh Chúng, tức tự thân là Tôn Thắng Phật Đảnh Pháp Giới Mạn Đà La.
 

BỔN TÔN TÔN THẮNG

PHẬT ĐẢNH CHÂN NGÔN
 

Na mô bạt dà bà đế đát lệ lộ ca bát ra để vi thất sắc tra da bột đà da bạt dà bà đế, đát điệt tha.

Úm vĩ thú đà da sa ma tam mạn đa phạ bá sa tát pha ra nõa yết đé da ha na tát phạ bà phạ vi thuật đệ, a tì tiên dã đổ ma ám tô nghiệp đa phạ ra phạ dã a mê lặt đa tì sa kế a ha ra a ha ra, a du tán đà ra ni du đà da du đà da, da da na vi thuật đệ, sa ha sa ra ra thấp nhị tán chú địa đế tát bà đát tha nghiệt đa phạ lô yết nễ sa tra bà ra mật đa bà lợi bố ra ni tát bà đát tha nghiệt đa hật rị đà da, địa sắc tra da, địa sắc sỉ đa ma ha mẫu điệt lê phạt chiết ra ca da tăng ha đát na vi thuật đệ, tát bà phạ ra nõa bà da đột lặt yết đế bà lợi thuật đệ bát ra ra để nể phạ rị đa da a du thuật đệ tam ma da địa sắc sỉ đế ma nễ ma nễ ma ha ma nễ đát lân đa bộ đa câu trí bạt lị thuật đệ vi tát phổ tra bột địa thuật đệ nhạ da nhạ da, vị nhạ da vi nhạ da tát ma ra tát ma ra tát bà bột đà địa sắc sỉ đa thuật đệ, phạt chiết lê, phạt chiết ra yết tì phạt chiết lam bà phạ đổ ma ma  tên… tả xá lợi lộ tát phạ tát đỏa nẫm dã ca da bà lị tì thuật độ tát bà nghiệt đế bà lợi thuật đề tát bà đát tha nghiệt đa thất dã mê tam ma thấp phạ sa diễm đô tát phạ đát tha nghiệt đa tam ma thấp phạ sa địa sắc sỉ đế bột điệt bột điệt vi bộ đà da vi bộ đà da tam mạn đa bà lợi thuật đề tát bà đát tha nghiệt đa hật rị đà da địa sắt tra da địa sắc sỉ đa ma ha mẫu điệt lê Sa Bà ha.

Bổn Đà La Ni này, Trung Thiên Trúc Thiện Vô Uý đem qua Trung Quốc, sau lại có Ngài Phật Đà Ba Lợi lưu truyền, các bản đều thiếu. Đây là bản lưu truyền đầy đủ.

Niệm tụng tuỳ ý theo hơi thở hoặc tưởng an Bổn Tôn nơi tâm nguyệt luân, nơi tự thân từ từ rộng lớn biến khắp Pháp Giới. Dùng các chữ chân ngôn bố trí xung quanh nguyệt luân, tức phát nguyện rộng rãi hồi hướng cho tất cả hữu tình, đem các thiện nghiệp ban cho chúng sanh khiến xa lìa các khổ địa ngục v.v… tuỳ hỉ các việc, nhất y như trên, sau đó tụng chân ngôn cầu các thắng nguyện đều được đầy đủ.

Nguyện hồi hướng chân ngôn rằng:

Úm tát ra phạ cu xá ra mộ ra ninh bát ra ninh độ da nhị tát ra phạ cu xá ra mộ la tam ma đa bát ra bán dá đạt ra mãn đa sa phạ bà phạ tất địa dạ ra nga nẵng đa huệ.

Trì tụng chân ngôn xong, lại tưởng tiễn đưa Bổn Tôn, giải Kim Cang giới. Lại dùng chân ngôn giải giới.

Giải Giới chân ngôn rằng:

Úm phạt chiết ra mộ khất sa mộ.

Hai tay xoa nhau thành Kim Cang quyền, để lên đảnh. Đây là giải tất cả các kết giới, cũng hay tiễn đưa Bổn Tôn. Từ đây về sau là các việc hoạ tượng, hộ ma, các Pháp Sự.

Pháp thứ nhất: Nếu người muốn được sống lâu không bị đoạ vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A Tu La v.v… và tiêu trừ các tội nghiệp, mỗi thời chí tâm tụng Đà La Ni hai mươi mốt biến, khởi tâm từ bi thương xót hết thảy chúng sanh, tức được tiêu trừ các tội chướng trong các đường ác.

Pháp thứ hai: Nếu có các loại La Sát, quỷ thần vào trong nước làm não hại chúng sanh, xưng Nam Mô Phật. Chí tâm tụng Đà La Ni này một trăm tám biến, các tai nạn trên được tiêu trừ.

Pháp thứ ba: Nếu có người không tin, chế tâm một chỗ chuyên tâm làm pháp này, tức được đại nghiệm khiến kẻ kia khởi lòng tin. Nếu làm pháp có hiệu nghiệm, tức có gió lớn thổi vào thân, trên thân có các ác nạn và đen xấu được gió kia thổi đến, thảy đều được tiêu diệt.

Pháp thứ tư: Nếu muốn được đại tự tại, trong bảy ngày đối bốn phương, mỗi phương tụng trăm tám biến, dùng bảy thứ hoa đắp thành hình người để ở bốn phương, tức được thành tựu các nguyện.

Pháp thứ năm: Nếu muốn tiêu trừ các tội chướng nơi thân, tức ở bốn chân cửa thành làm pháp như trên.

Pháp thứ sáu: Nếu nguời muốn tiêu diệt các tội nặng trong đời trước, ở nơi ngã tư đường tụng chú.

Pháp thứ bảy: Nếu người muốn tiêu các tội lỗi chúng sanh, ở trước Tháp Phật làm pháp trên.

Pháp thứ tám: Nếu người muốn cứu các tội khổ chúng sanh nơi địa ngục, mỗi ngày kết Phật Đảnh Ấn, tụng hai mốt biến, hướng bốn phương xả ấn tức được.

Pháp thứ chín: Nếu người muốn cho ngạ quỷ uống nước, lấy nước sạch gia trì hai mốt biến, tán rãi bốn phương, trong tâm tưởng các ngạ quỷ đều được nước đầy đủ.

Pháp thứ mười: Nếu người muốn cứu các tội khổ của loài súc sanh, lấy đất vàng sạch gia trì hai mốt biến, rãi trên thân súc sanh và rãi bốn phương, các tội khổ tức được tiêu trừ.

Pháp thứ mười một: Nếu người muốn cứu tội khổ của loài người, Trời, đọa lạc vào các chỗ khủng bố, lấy các thứ hoa đủ màu, gia trì hai mốt biến, tán rãi Tam Bảo và trên đảnh Phật, tất cả tội đều tự nhiên tiêu trừ.

Pháp thứ mười hai:  Nếu có Vương nạn, bách quan nạn, quân binh, khẩu thiệt các nạn, gia trì hai mốt biến vào năm thứ nước nóng thơm, tắm rửa Phật và rãi trên đảnh Phật, các nạn tức tiêu trừ.

Pháp thứ mười ba: Nếu Sa Môn, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà bốn chúng muốn được phước báo đầy đủ, mỗi ngày phát nguyện, sám hối, tụng chú bảy biến, đem công đức hồi thí cho tất cả chúng sanh, làm pháp nấy tức được như nguyện.

Pháp thứ mười bốn: Nếu người muốn tiêu trừ tất cả nghiệp chướng cho chúng sanh, dùng lụa năm màu làm cái phất, gia Trì Chú nơi phất để phất tượng và Kinh, thường làm pháp này khiến tội nghiệp chúng sanh được tiêu trừ.

Pháp thứ mười lăm: Nếu bị khẩu thiệt, lấy mật đựng trong đồ sạch, dùng châu sa hoà mật, gia trì hai mốt biến, đem bôi nơi môi miệng Phật tượng, khẩu thiệt tức tiêu trừ.

Pháp thứ mười sáu:  Nếu ngưòi bị bệnh nằm liệt giường, hoặc muốn được chúng sanh ái trọng, muốn được cứu các việc thế gian, xuất thế gian, tâm chưa quyết định, bị quỷ thần làm não loạn sanh ra vọng tưởng điên đảo, dùng trăm tám miếng vàng lá, gia trì chân ngôn hai mốt biến, đem dán nơi đảnh Tượng Phật, làm hình châu Ma Ni các việc, tức được tiêu trừ, cầu gì đều được.

Pháp thứ mười bảy: Nếu ở trong nước bị quỷ làm bệnh, các bệnh thời khí tật dịch, nơi trên bốn cửa thành dùng vải xanh viết chân ngôn, dùng gỗ Bạch Đàn Hương làm một cái trắp đựng, dùng sáp gắn lại đem treo bốn cửa thành, dùng lọng năm màu che trên, tất cả quỷ thần, tật bệnh đều tiêu trừ.

Pháp thứ mười tám: Nếu trong nước năm thứ lúa bị mất mùa, mưa gió không đều, dùng lụa trắng làm cái phướn viết chân ngôn trên đó và vẽ Phật Đảnh ấn treo cao trăm tám thước ở chánh Nam, tức được mưa hoà gió thuận, lúa thóc được mùa, nhân dân an lạc, rồng ác chuyển tâm, Vua A Tu La không làm chướng ngại.

Pháp thứ mười chín: Nếu mưa lớn không dứt dùng lụa vẽ chân ngôn hai mốt tấm, treo hướng chánh Nam của đất nước, mưa tức dừng.

Pháp thứ hai mươi: Nếu trong nước có giặc giã, dùng vải xanh viết chân ngôn hai mốt bức, ở giữa vẽ Càn Tháp Bà Nhi Thiên Trụ, hai tay cầm cung tên, đem treo ở hướng chánh Đông, ác giặc tự nhiên tan rã.

Pháp thứ hai mốt: Nếu Quốc Vương bị tại nạn, nên dùng các vật tạo trăm tám cái Tháp Phật, dùng lá vàng bạc dán và viết chân ngôn trong tướng luân Tháp, đem để trong tráp, tức được tiêu trừ các tai họa, tăng các phước đức.

Pháp thứ hai hai: Nếu có kẻ giàu người nghèo muốn hộ mình, hộ người, cầu tài bảo xứng ý, nên khởi lòng lành không tán loạn, mỗi ngày mỗi thời trước Phật kết ấn tụng chú bảy biến, nhìn ngắm mặt tượng, mắt không nháy, làm pháp này tức được phước đức tăng trưởng, sống lâu không đoạ ác độc.

Pháp thứ hai ba: Nếu có người nữ muốn cầu con trai, con gái trong trăm ngày đem các đồ ăn uống ngon ngọt thí cho kẻ nghèo, kẻ bệnh, lúc cho miệng tụng chân ngôn không ngớt, làm pháp như vậy tức được sanh con trai, con gái phước đức.

Pháp thư hai bốn: Nếu vợ chông không hoà thuận lấy vải gia trì chân ngôn hai mốt biến, đem may áo cho vợ chồng mặc, tức được hoà thuận.

Pháp thứ hai lăm: Nếu người nữ không có chồng, lấy muối sạch không kể nhiều ít gia trì hai mốt biến, đem cúng hiện tiền Tăng, tức được.

Pháp thứ hai sáu: Nếu có ngoại đạo, Quốc Vương, Vương Tử, Đại Thần, trăm quan không tin Phật Pháp, lấy sữa ba con bò vàng không tật bệnh, tụng chân ngôn gia trì nước hai mốt biến, cho bò uống. Mặt Trời mọc đem sữa đựng trong đồ bằng bạc gia trì hai mốt biến, đem tán rãi nơi đất sạch bốn phương.

Người cầm sữa này phải mặc đồ trắng, miệng nói: Càn Thát Bà nhi Thiện Trụ và Thiên Đế Thích!

Nay có việc này cần phải làm đó. Sau đó vào thành, Quốc Vương, Vương Tử, bá quan, ngoại đạo không tin Phật Pháp, thấy hành giả đều hoan hỷ, nói gì đều tin theo, được lòng tin không thay đổi.

Pháp thứ hai bảy: Nếu nơi chỗ ở có các ác quỷ thần, ác độc Long v.v... hành giả muốn hàng phục, dùng sữa bò gia trì hai mốt biến, đem rãi trong ao có rồng, rồng tức hiện lại, hành giả bảo rằng: Người không được làm tổn hại chúng sanh trong giới này tức an trí rồng ở một chỗ. Nếu không lại và không ngừng việc ác, tức tụng chân ngôn gia trì cát hai mốt biến rãi nơi ao, ao tức cạn khô. Hành giả đem rồng đi an trí nơi khác.

Nếu là ác quỷ thần, hành giả gia trì đồ ăn uống hai mốt biến, thí cho họ và bảo rằng: Nếu các ngươi không làm tổn hại chúng sanh thì được ở, nếu trái lại tức phải đi nơi khác. Nếu quỷ thần không chịu liền dùng cây sắt dài mười hai chỉ, gia trì hai mốt biến, đóng nơi đất, ác quỷ thần tức bỏ chạy, hành giả an trí quỷ thần ở một chỗ không đi đâu.

Pháp thứ hai tám: Hành giả khi muốn đi đâu, làm một cái phất trắng gia trì trăm tám biến, cầm nơi tay đi. Nếu gặp các loài súc sanh, dùng phất phủi một cái, các loài đó được xa lìa các khổ, ác nghiệp được giải thoát.

Pháp thứ hai chín: Nếu cho tiên vong xa lìa khổ được giải thoát, hành giả ngồi nơi Thi Đà Lâm bảy ngày, ngày ba thời tụng chân ngôn nhiều ít tuỳ ý. Mãn bảy ngày xong, lấy đất nơi chỗ ngồi mà rãi, các vong tức xa lìa các khổ, được giải thoát, sanh lên Cõi Trời vĩnh viễn, xa lìa ác độc.

Pháp thứ ba mươi: Néu có người làm ăn buôn bán ế ẩm, cầu gì không được. Hành giả kết ấn tụng hai mốt biến, an trí hình tượng Thiên Trụ nơi bí mật cúng dường, tức được thành tựu việc cầu.

Pháp thứ ba mốt: Nếu có người đi vào trong rừng núi muốn phòng hổ lang, sư tử, độc xà ác thú, trước khi vào ở nơi cửa núi tụng chú hai mốt biến, gia trì nơi đất vàng bảy biến, ngậm nơi miệng thổi vào trong núi rừng bảo rằng:

Tất cả các loài, độc dữ trong núi đều tiêu, đất này là của ta nếu y theo ta thì được ở, nếu không vâng lệnh ta thì mau đi chỗ khác, nếu không đi miệng bị cấm bế mở ra không được. Hành giả thấy hổ lang, sư tử các cầm thú không hả miệng tức bảo đi.

Nếu không đi, hành giả thấy chúng mở miểng tức hội chúng lại một chỗ, dùng tay phải xoa nơi đầu chúng gia trì hai mốt biến bảo rằng: Ta khiến các ngươi được mở miệng, đi ra và giữ gìn vùng đất này. Hành giả đuổi chúng xong. Hành giả ở trong núi chừng hai tháng, không được đi nơi đây đó ở lâu, khiến các cầm thú không được an ổn.

Pháp thứ ba hai: Trong núi có các quỷ thần, rồng không muôn cho hành giả ở ẩn trong núi, hành giả biết vậy tức y theo pháp phân chia bảo rằng: Ta muốn chỗ này cần các ngưòi đồng ý, nếu như không bằng lòng cho ta cùng ở, các ngưòi phải đi ra khỏi ba trăm do tuần. Nếu không chịu nghe theo, ta sẽ cấm các người không biết Đông Tây, ở mãi một chỗ. Liền dùng cây sắt dài mười hai chỉ, gia trì trăm tám biến, đóng nơi đầu cửa, thì các loại kia liền đi khỏi trăm do tuần an ở.

Pháp thứ ba ba: Nếu có các rồng bị ngoại đạo cấm chế cột trói khiến trong nước không mưa, hành giả ở nơi có rồng, làm một tiểu đàn dùng cây dâu làm tám cái then để giữa đàn, để ba chén sữa, lạc, để trên đàn gia trì sữa lạc và then trăm tám biến then đóng bốn phương tám hướng của ao rồng, dùng bơ lạc rãi xuống ao, lại lấy vàng lá gia trì dán lên lá sen trong ao bảo rằng: Thiện tri thức bị ách nạn, ngoại đạo cột trói, nay ta làm pháp này dùng Đà La Ni giúp người được thoát, khiến cho pháp và chân ngôn trôi theo nước.

Hành giả thổi ba hơi, cấm pháp của ngoại đạo tức bị tiêu, rồng được giải thoát các nạn, hiện lại cúng dường hành giả thưa rằng: Ngài cần bảo việc gì?

Hành giả đáp: Ông nên theo thời tiết làm mưa, đem Đà La Ni an trí nơi đảnh, từ đây về sau, ông không còn bị nạn nữa.

Pháp thứ ba bốn: Nếu như có mưa lụt lớn làm tổn hại người, tụng chân ngôn gia trì trong nước hai mốt biến, đem đổ nơi nước lụt, tức không hại người.

***