Giaùo duïc cuûa Ñöùc Phaät laø giaùc ngoä töï taùnh
Kinh Ñieån Phaät Thuyeát vieân maõn ñuùng nghóa laø hoïc taäp vaø chuyeân tu

daitangkinh.vn

LUẬN GIẢNG RỘNG Ý NGHĨA

NĂM UẨN THEO GIÁO PHÁP ĐẠI THỪA

Giảng giải: Bồ Tát An Huệ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Địa Bà Ha La, Đời Đường
 

Phật dạy năm uẩn là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.

Sắc uẩn là gì?

Đó là bốn đại chủng và những gì được tạo nên từ bốn đại chủng.

Bốn đại chủng là gì?

Là địa giới, thuỷ giới, hoả giới và phong giới.

Địa giới là những vật chất có tính cứng. Thuỷ giới là những vật chất có tính ẩm ướt. Hoả giới là những vật chất có tính ấm áp. Phong giới là những vật chất có tính chuyển động nhẹ nhàng.

Chữ giới có nghĩa là khả năng giữ được, duy trì được tính chất của nó khi nó tạo ra những vật chất khác.

Tứ Đại sở tạo sắc là gì?

Đó là nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, sắc, thanh, hương, vị, một phần của xúc và vô biểu sắc.

Chữ tạo có nghĩa là nhân hình thành.

Chữ căn có nghĩa là tính chất ưu việt, tối thắng và tự tại, là chủ và có khả năng làm cho tăng thượng phát triển.

Vì sao nói căn là chủ?

Và làm chủ cho cái gì?

Nghĩa là, nhãn căn làm chủ nhãn thức, vì từ đó mà nhãn thức hình thành. Tương tự như vậy cho đến thân căn làm chủ thân thức, vì từ đó mà thân thức hình thành.

Nhãn căn là gì?

Là phần vật chất tinh tế tịnh sắc cấu tạo nên con mắt, có khả năng phản ánh được hình ảnh cảnh.

Trong nhãn căn có một thành phần vật chất tinh tế mà ta gọi là tịnh sắc đó chính là thần kinh hệ thị giác, nó giống như tinh chất của đề hồ, và nhờ có tính chất này mà nhãn thức được hình thành. Nếu không có thành phần tinh tế ấy thì nhãn thức không thể phát sinh.

Nhĩ căn là gì?

Là phần vật chất tinh tế cấu tạo nên lỗ tai, có khả năng phản ánh được âm thanh, tức lấy âm thanh làm cảnh.

Trong nhĩ căn có một phần vật chất tinh tế mà nhờ có tính chất này nhĩ thức mới được hình thành. Nếu không có thành phần tinh tế ấy thì nhĩ thức không thể phát sinh.

Tỷ căn là gì?

Là phần vật chất tinh tế hay vi tế cấu tạo nên lỗ mũi, có khả năng phản ánh được mùi hương, tức lấy mùi hương làm cảnh.

Trong tỷ căn có một phần vật chất tinh tế mà nhờ có tính chất này tỷ thức mới được hình thành. Nếu không có thành phần tinh tế ấy thì tỷ thức không thể phát sinh.

Thiệt căn là gì?

Là phần vật chất tinh tế cấu tạo nên cái lưỡi có khả năng phản ánh được mùi vị, tức lấy mùi vị làm cảnh. Ở trên cái lưỡi, thành phần vật chất tinh tế bao trùm cả cái lưỡi.

Nhưng cũng có thuyết nói, trên cái lưỡi, phần vật chất này rất nhỏ, chỉ nhỏ bằng đầu sợi lông, không phải bao trùm cả cái lưỡi, và nhờ vào phần vật chất tinh tế này mà thiệt căn được hình thành, nếu không có phần vật chất tinh tế này thì thiệt căn không thể phát sinh.

Thân căn là gì?

Là phần vật chất tinh tế có khả năng phản ánh được đối tượng khi xúc chạm.

Nằm tiềm ẩn trong khắp thân thể là phần vật chất tinh tế này tức là thần kinh hệ xúc giác, và nhờ phần vật chất tinh tế này mà thân thức được hình thành, nếu không có tính chất này thì thân thức không thể phát sinh.

Sắc là gì?

Là đối tượng của con mắt, gồm hiển sắc, hình sắc và biểu sắc... hiển sắc có bốn loại là xanh, vàng, đỏ, trắng. Hình sắc thì có dài, ngắn, vuông, tròn…

Thanh là gì?

Là tiếng, đối tượng của tai, gồm âm thanh xuất phát từ các loài hữu tình chấp thọ đại chủng nhân thanh, âm thanh xuất phát từ các vật vô tình phi chấp thọ đại chủng nhân thanh và âm thanh xuất phát từ sự kết hợp giữa hữu tình và vô tình câu đại chủng nhân thanh.

Tâm là chủ thể của sự chấp thọ, các loại âm thanh là đối tượng của sự chấp thọ.

Âm thanh xuất phát từ các loài hữu tình là âm thanh phát ra từ đại chủng có sự chấp thọ, như tiếng vỗ tay, tiếng nói…

Âm thanh xuất phát từ các vật vô tình là âm thanh phát ra từ đại chủng không có sự chấp thọ, như tiếng gió thổi lao xao trong rừng, tiếng nước chảy…

Âm thanh xuất phát từ sự kết hợp giữa hữu tình và vô tình, tức giữa đại chủng có chấp thọ và đại chủng không có sự chấp thọ, như tiếng trống, tiếng đàn…

Hương là gì?

Là đối tượng của mũi, gồm cả hương thơm, hương thúi, hương không thơm không thúi.

Hương thơm là những mùi hương khi mũi ngửi thấy thì làm tăng trưởng các uẩn, có ích cho thân tâm.

Hương thúi là những mùi hương mà khi mũi ngửi thấy thì không làm tăng trưởng các uẩn, tổn hại thân tâm.

Hương không thơm không thúi, gọi là đẳng hương, là những mùi hương mà khi mũi ngửi thấy thì không có ích gì cho thân tâm nhưng cũng không làm cho thân tâm tổn hại.

Vị là gì?

Là đối tượng của lưỡi, gồm các vị ngọt, chua, mặn, cay, đắng, nhạt…

Một phần của xúc là gì?

Là đối tượng của thân, gồm những cảnh có tính trơn láng, thô sáp, nặng, nhẹ, lạnh, đói, khát… trừ bốn đại chủng đất, nước, gió, lửa.

Trơn láng là những vật nhỏ bé, mịn màng, mềm mại. Thô sáp là những vật thô cứng. Nặng là có thể cân được. Nhẹ là có thể lật lại được. Lạnh là muốn được ấm áp. Do tiếp xúc mà cảm nhận được cái lạnh. Đó là hậu quả được gọi tên theo nguyên nhân.

Như nói:

Phước lạc thay là sự xuất hiện của Chư Phật.

Phước lạc thay là sự diễn thuyết của Chánh Pháp.

Phước lạc thay là sự hòa hiệp của Tăng Già.

Phước lạc thay là sự cần tu của đại chúng.

Tinh tấn thì mệt nhọc, cực khổ nhưng vẫn là cái nhân của hạnh phúc, cho nên mới nói là vui thay!

Đây cũng như vậy. Muốn ăn là đói. Muốn uống là khát. Giải thích cũng giống như trên.

Trên đây đã nói bảy loại xúc được tạo ra từ bốn đại chủng, cộng với bốn đại chủng nữa thì xúc có tất cả mười một tự thể.

Vô biểu sắc là gì?

Là những sắc thuộc hữu biểu nghiệp và những loại sắc xuất hiện trong thiền định không thể nhìn thấy và cũng không gây chướng ngại.

Hữu biểu nghiệp là biểu hiện của thân và ngữ lời nói, nó gồm cả ba tính chất thiện, bất thiện và vô ký. Chỗ phát sinh của sắc này là từ nơi sắc của thiện, bất thiện kia biểu hiện tức là từ động lực của nghiệp thiện hay bất thiện tiềm tàng trong thân. Vì sắc này không hiển thị, không nhìn thấy nên gọi là vô biểu.

Sắc xuất hiện trong thiền định là gì?

Là sắc hiện khởi trong bốn tứ tĩnh lự.

Vô biểu sắc này cũng là sắc được tác thành mà ta thường gọi thiện luật nghi, bất thiện luật nghi… cũng gọi là nghiệp, cũng gọi là chủng tử.

Các sắc, như vậy, lược nói thì có ba loại.

Một là sắc nhìn thấy được và có tính gây trở ngại.

Hai là sắc không nhìn thấy nhưng có tính gây trở ngại.

Ba là sắc không nhìn thấy mà cũng không có tính gây trở ngại.

Trong đó, loại sắc nhìn thấy được và có tính gây trở ngại gọi là hiển sắc.

Loại sắc không nhìn thấy nhưng có tính gây trở ngại đó chính là căn của con mắt tịnh sắc căn…, và loại sắc không nhìn thấy cũng không có tính gây trở ngại gọi là vô biểu sắc.

Thọ uẩn là gì?

Thọ là sự cảm nhận của thức.

Thọ có ba loại: Lạc thọ, khổ thọ, và thọ không lạc không khổ.

Lạc thọ là cái cảm giác mà khi nó mất đi thì mình muốn tìm lại.

Khổ thọ là cái cảm giác khi có thì mình muốn bỏ đi.

Không khổ không lạc là cái cảm giác nằm ngoài hai loại cảm giác trên, tức không có ước muốn tìm lại cũng không có ước muốn xua đuổi đi.

Tưởng uẩn là gì?

Là tác dụng tâm lý nắm bắt thật nhiều các tướng trạng cảnh giới, nó làm tăng thêm sức mạnh nắm bắt.

Hành uẩn là gì?

Trừ thọ uẩn, tưởng uẩn ra, những tâm pháp và tâm bất tương ưng hành còn lại là hành uẩn.

Tâm pháp là những tâm lý tức những tâm hành hay tâm sở cùng tương ưng với tâm, chúng gồm có:

1. Năm tâm sở biến biến hành: Xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư. Năm loại tâm lý này có mặt khắp trong tất cả mọi trường hợp tâm thiện, bất thiện và vô ký, nên gọi là biến hành.

2. Năm tâm sở biệt cảnh: Dục, thắng giải, niệm, định, tuệ. Năm loại tâm lý này chỉ xuất hiện trong những trường hợp và cảnh vực sai biệt, duyên vào từng đối tượng cụ thể mà sinh khởi.

Chúng thay đổi hoặc quyết định xuất hiện trong từng trường hợp nhưng chúng không tách rời nhau, nhất định hỗ trợ nhau, khi một cái khởi thì tất có bốn cái kia.

3. Mười một tâm sở thiện: Tín, tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si, tinh tấn, khinh an, bất phóng dật, xả, bất hại.

4. Sáu tâm sở phiền não căn bản: Tham, sân, mạn, vô minh, tà kiến, nghi. còn lại là các tuỳ phiền não: Vô tàm, vô quý, hôn trầm, trạo cử, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chính tri.

5. Bốn pháp bất định: Ác tác, thuỵ miên, tầm, tứ. Bốn pháp bất định này không chỉ là những tuỳ phiền não mà chúng còn có mặt trong tâm sở thiện và vô ký nữa, nên gọi là bất định, vì nó không nhất định là thiện hay nhiễm. Các thứ xúc… thể tính và nghiệp chủng của nó nay sẽ giải thích dưới đây.

Xúc là gì?

Là sự hòa hợp của ba thành phần căn, cảnh, thức. Tự tính của nó là phân biệt. Sự hòa hợp của ba thành phần là con mắt, sắc và thức, những căn khác như tai, mũi… cũng như vậy. Đây là sự hòa hợp giữa tâm và tâm pháp tâm sở mà sinh ra nên gọi là xúc. Chức năng nghiệp dụng của xúc là làm duyên cho thọ phát sinh làm sở y cho thọ.

Tác ý là gì?

Là lay động tâm khiến cho tâm phát sinh nhận biết, kích động vào tâm khiến cho tâm và tâm pháp tâm sở hiện khởi. Chức năng của nó là làm cho tâm ghi nhớ ý nghĩa và giữ gìn các điều kiện cần bám víu.

Tư là gì?

Tự tính của nó là khiến tâm tạo tác, phát động ý nghiệp, thôi thúc tâm tạo tác những việc công đức thiện, lỗi lầm bất thiện hoặc vô ký…

Tự tính này, nếu có, thì đó là tác dụng phan duyên của thức ngay nơi hiện tại, mà chức năng của nó là sử dịch tâm nơi các phẩm chất thiện, bất thiện, vô ký, giống như chỗ nào có từ thạch nam châm thì các loại sắt bị hút về nó.

Dục là gì?

Đặc tính của nó là hy vọng ở nơi đối tượng đáng yêu thích. Đối tượng đáng được yêu thích là những gì muốn thấy, muốn nghe… thì hy vọng, mong cầu. Nghiệp dụng của nó là sở y cho tinh thần.

Thắng giải là gì?

Đặc tính của nó là ghi dấu ấn trên đối tượng đã được xác, nhận thức đúng như bản chất của nó. Đối tượng đã được xác định ở đây là năm uẩn v.v…

Như Tôn giả Thế Thân đã nói: Sắc như chùm bọt nổi, thọ như bong bóng nước, tưởng như quáng nắng, hành như cây chuối, thức như ảo cảnh. Cảnh như vậy là đã được xác định.

Hoặc nói, các pháp trụ trong tự tướng của nó, nghĩa là căn cứ vào bản chất của các pháp mà xác định như vậy.

Nói xác định tức là duy trì dấu ấn trên sự thể đã được xác định. Nghiệp dụng của nó là không bị dẫn chuyển, vì nó có tăng thắng, không thể bị dịch chuyển bởi các khác.

Niệm là gì?

Tự tính của nó là nhớ rõ không quên mất của tâm đối với việc đã từng quen thuộc. Việc đã từng quen thuộc nghĩa là những việc đã từng được huân tập đã từng trải quả trước kia. Nghiệp dụng của nó là làm sở y sự không tán loạn định.

Tam ma địa là gì?

Tự tính của nó là khiến cho tâm chuyên chú trên một đối tượng được quan sát.

Đối tượng được quán sát là năm uẩn v.v… và các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã… tâm nhất cảnh có nghĩa là tâm chuyên chú vào một đối tượng.

Nghiệp dụng của nó là làm sở y cho trí, vì khi tâm có định thì có sự hiểu biết đúng như thật.

Tuệ là gì?

Tự tính của nó là tuyển chọn hay thẩm tra trạch pháp đối với đối tượng kia. Nó chỉ ra đối tượng đó là đúng như lý, hoặc không đúng như lý, hoặc không nằm trong cả hai trường hợp trên.

Đối với đối tượng kia tức là những sự thể đã được quan sát.

Trạch pháp có nghĩa là do tuệ giản trạch, thẩm tra tự tướng, cộng tướng của các pháp mà đạt đến quyết định.

Chỉ ra đối tượng đó đúng như lý tức là đệ tử của Phật đúng với Phật Pháp, không đúng như lý tức là ngoại đạo, không nằm trong cả hai trường hợp trên tức là những chúng sinh còn lại.

Nghiệp dụng của tâm sở huệ là đoạn trừ nghi. Năng lực của tuệ là giản trạch, thẩm tra, ở trong các pháp mà đạt đến quyết định.

Tín là gì?

Tự tính của nó là tâm tịnh. Đối với vấn đề nghiệp, quả, chân lý, cao quý… nó tin sâu xa, chân chính và tùy thuận.

Nghiệp là phước, phi phước và bất động nghiệp. Quả là quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán. Chân lý là tứ diệu đế khổ, tập, diệt đạo.

Cao quý là tam bảo Phật, Pháp, Tăng. Đối với vấn đề nghiệp, quả… như vậy nó tin một cách sâu sắc, chân chính và phù hợp, cũng gọi là thanh tịnh. Nghiệp dụng của nó là chỗ nương tựa cho hy vọng và ước muốn.

Tàm là gì?

Tự tính của nó là do tôn trọng bản thân hay tôn trọng pháp mà có sự hỗ thẹn về những tội lỗi của mình làm.

Tội lỗi là những lỗi lầm, bị người trí chê trách. Hỗ thẹn là không làm những điều tội lỗi nữa.

Nghiệp dụng của tàm là đình chỉ và ngăn chặn hành vi xấu ác.

Quý là gì?

Tự tính của nó là do coi trọng sự chê trách của người khác mà xấu hỗ với điều tội lỗi của mình làm.

Coi trọng sự chê trách của người khác tức là lo sợ sự bắt lỗi, trách phạt và dị nghị… của thế gian đối với những lỗi lầm mình làm, tức là xấu hỗ khi bị người đời chỉ trích.

Nghiệp dụng của nó cũng giống như tâm sở tàm.

Vô tham là gì?

Tự tính của nó là không dính mắc và đối trị tham, khiến chán sợ vô cùng. Nghĩa là, tâm sở tham là sự dính mắc và đắm đuối trong các hữu và các tư cụ của hữu, đối trị nó là vô tham.

Điều này có nghĩa, vô tham là sự dứt bỏ và không dính mắc vào trong hữu và các tư cụ của hữu.

Chán sợ vô cùng là bởi vì biết tham tạo những lỗi lầm khiến trôi lăn trong sinh tử.

Nghiệp dụng của vô tham là cung cấp sở y mà trên đó ác hành không thể diễn tiến.

Vô sân là gì?

Tự tính của nó là lòng từ bi, đối trị sân. Nghĩa là, đối với chúng sinh nó không tổn hại. Nghiệp dụng của nó giống như vô tham đã nói.

Vô si là gì?

Tự tính của nó là đối trị ngu si, chân chính tu hành đúng như thật.

Như thật là nói lược, nói đủ là nỗ lực tu hành đúng theo các pháp tứ thánh đế, mười hai duyên khởi, tức là chính tri. Nghiệp dụng của nó cũng giống như vô tham.

Tinh tấn là gì?

Tự tính của nó là đối trị biếng nhác, dũng mãnh tích cực trong sự tu tập các phẩm thiện.

Nghĩa là, nó có những đặc tính: Khoác khôi giáp, gia hành, không khiếp nhược, không thối chuyển, không tự mãn.

Nghiệp dụng của nó là hoàn thiện viên mãn các pháp thiện.

Khinh an là gì?

Đó là tính mềm dẻo, thân tâm thư thới, đối trị sự thô kệch, nặng nề. Nghĩa là, nó loại trừ mười nghiệp bất thiện.

Nghiệp dụng của nó là loại trừ tất cả những gì gây chướng ngại. Và nhờ năng lực này, nó loại trừ mọi chướng ngại, chuyển đổi được những gì thô kệch, nặng nề.

Không phóng dật là gì?

Là sự tu tập các thiện pháp do y chỉ trên vô tham cho đến tinh tấn, nhằm loại trừ các Pháp bất thiện và đối trị phóng dật.

Vì rằng, tham, sân, si cùng với sự biếng nhác được gọi là phóng dật. Đối trị phóng dật là bất phóng dật. Tức là, bất phóng dật chính là sự tu tập các thiện pháp nhằm đối trị các bất thiện pháp bằng cách y chỉ vào bốn pháp vô tham, vô sân, vô si và tinh tấn.

Nghiệp dụng của nó là sở y cho sự tu tập chân chính giữa thế gian và xuất thế gian.

Xả là gì?

Đó là tính bình đẳng của tâm, tính chính trực của tâm, tính an trụ không dụng công của tâm. Tính này đạt được do y chỉ vô tham, vô sân, cho đến tinh tấn. Tức là, do y chỉ nơi bốn pháp vô tham, vô sân, vô si và tinh tấn mà đạt được viễn ly tất cả các pháp ô nhiễm và an trụ trong pháp thanh tịnh. Trước hết, đạt được tâm bình đẳng là khi xa lìa được các lỗi lầm hôn trầm, trạo cử.

Kế đến, đạt được tâm chính trực là khi nhậm vận không khích lệ. Và sau cùng là đạt được tâm an trụ không dụng công là khi xa lìa hết mọi nhiễm ô.

Nghiệp dụng của xả cũng giống như không phóng dật, đã nói trên.

Bất hại là gì?

Tự tính của nó là lòng từ bi, đối trị tâm hại. Nghĩa là, do lòng từ bi nên không gây tổn hại cho các loài hữu tình. Nghiệp dụng của nó là không tổn não chúng sinh và là một phần của vô sân.

Tham là gì?

Đó là sự đắm nhiễm, luyến ái và dính mắc nơi năm thủ uẩn. Nghĩa là nó trói buộc chúng sinh luân hồi trong ba cõi. Nghiệp dụng của nó là phát sinh khổ, do sức mạnh của ái mà năm thủ uẩn sinh khởi.

Sân là gì?

Đó là sự tàn hại đối với chúng sinh. Nghiệp dụng của nó là sở y cho ác hạnh, do tâm ở trong trạng thái thù hận, bức xúc, không an ổn. Không an ổn là bởi ôm lòng tàn hại người khác, tự trói mình trong đau khổ.

Mạn là gì?

Mạn có bảy thứ, đó là mạn, quá mạn, quá quá mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, ti mạn, tà mạn.

Mạn là gì?

Đó là tính bốc cao của tâm, như đối với người yếu kém thì nghĩ mình hơn, hoặc đối với người bằng mình thì nghĩ mình bằng họ.

Quá mạn là gì?

Đó là tính tự thị, bốc cao của tâm khi thấy người bằng mình thì nghĩ mình hơn họ, hoặc đối với người hơn mình thì nghĩ mình bằng họ.

Quá quá mạn là gì?

Đó là tính bốc cao của tâm khi đối với người hơn hẳn mình mà nghĩ mình vẫn hơn họ.

Ngã mạn là gì?

Đó là tính bốc cao của tâm, đối với năm thủ uẩn nó luôn nghĩ rằng đó là ta hoặc của ta.

Tăng thượng mạn là gì?

Đó là tính bốc cao của tâm, khi chưa chứng đắc pháp tăng thượng thù thắng mà cho rằng mình đã chứng đắc.

Chứng đắc pháp tăng thượng thù thắng có nghĩa là chứng quả Thánh và các Tam ma địa định, Tam ma bát để v.v… Đối với những pháp như vậy mình chưa được chứng mà đã tự thị kêu ngạo.

Ti mạn là gì?

Là tính hèn yếu của tâm, đối với những gì quá lớn lao vĩ đại thì tự cho mình thấp kém hạ liệt, không với tới được.

Tà mạn là gì?

Đó là tính bốc cao của tâm, thật sự chẳng có đức độ gì mà nghĩ mình có đức độ.

Nghiệp dụng của mạn là sở y cho sự không kính trọng phát sinh. Đối với những bậc đáng tôn trọng và những bậc có đức mình phát khởi tâm kêu ngạo, cống cao, không sinh lòng tôn kính.

Vô minh là gì?

Tự tính của nó là vô trí đối với nghiệp, quả, Tứ Đế, Tam Bảo. Có hai loại vô minh. Một là câu sinh vô minh, hai là phân biệt vô minh.

Trong Dục Giới, tham, sân và vô minh gọi là ba bất thiện căn ba gốc rễ bất thiện, tức là tham bất thiện căn, sân bất thiện căn, si bất thiện căn.

Ba bất thiện căn này có cái câu sinh, có cái không câu sinh, có cái do phân biệt mà hình thành. Câu sinh là như cầm thú v.v… sinh ra đã ngu muội rồi.

Không câu sinh là thứ ngu si do tham, tương ưng với tham. Phân biệt là những nhận thức sai lầm, tương ưng với hư vọng.

Nghiệp dụng của vô minh là làm sở y cho nghi và các phiền não.

Kiến là gì?

Có năm loại kiến, đó là tát ca da kiến, biên chấp kiến, tà kiến, kiến thủ, giới thủ.

Tát ca da kiến là gì?

Đặc tính của nó là chấp ngã và ngã sở nơi năm thủ uẩn, làm cho trí tuệ bị nhiễm ô.

Tát Phạn: Sat nghĩa là giả dối, hư ngụy, hư nát.

Ca da Phạn: Kāya nghĩa là tích tụ, hòa hợp. Tức là, trong cái thân năm uẩn tích tụ, giả hợp mà thành này người ta khởi lên một nhận thức cho nó là thường hằng, có một cái ngã khác với uẩn và có ngã sở…

Tại sao lại nói như vậy?

Bởi vì, sat là phá cái tưởng chấp thường, kāya là phá cái tưởng chấp có một cái ngã.

Vạn pháp đều do nhân duyên tích tụ nên chúng vô thường, trong đó tuyệt đối không có ngã và ngã sở.

Trí tuệ bị nhiễm ô bởi vì nhận thức này đi cùng với phiền não.

Tác dụng của kiến này là làm sở y cho tất cả mọi xu hướng kiến.

Biên chấp kiến là gì?

Là tuỳ thuộc vào tát ca da kiến mà phát sinh sự chấp thủ, hoặc chấp thường, hoặc chấp đoạn. Tự tính của nó là làm nhiễm ô tuệ.

Chấp thường là chấp rằng có một cái ngã tự tại, phổ biến cùng khắp và thường hằng.

Chấp đoạn là chấp rằng có một cái ngã là tác giả của mọi hành vi, ví dụ như người đàn ông có cái ngã của người đàn ông…, nhưng cái ngã này chết là hết, không còn tái sinh trở lại, giống như cái bình đất, bể rồi là hết dùng.

Nghiệp dụng của biên chấp kiến là chướng ngại trung đạo và xuất ly.

Tà kiến là gì?

Đó là các quan điểm bài bác nhân quả, hoặc bài bác tác dụng, hoặc phá hoại các việc lành. Tự tính của nó là làm nhiễm ô tuệ.

Bài bác nhân là sao?

Tự tính của nhân là nghiệp và phiền não, tổng cộng có năm thứ: phiền não có ba thứ là vô minh, ái và thủ.

Nghiệp có hai thứ là hành và hữu. Hữu tức là những nghiệp chủng tử hạt giống của nghiệp nằm trong thức A lại da, còn gọi là nghiệp.

Như trong kinh Đức Thế Tôn dạy: Này A Nan!

Nếu nghiệp có khả năng đưa tới quả báo ở vị lai, thì nó cũng được gọi là hữu. Bài bác hết tất cả những điều này thì gọi là bài bác nhân.

Bài bác quả là sao?

Quả có bay thứ, đó là thức, danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ, sinh, và già chết. Bác bỏ hết những thứ này thì gọi là bài bác quả.

Hoặc cho rằng không có việc thiện, việc ác gọi là bài bác nhân. Cho rằng không có quả báo của việc thiện, việc ác gọi là bài bác quả.

Hoặc cho rằng không có đời này, đời sau, không có cha, không có mẹ, không có chúng sinh hoá sinh… sự bài bác này gọi là bài bác tác dụng.

Nghĩa là, tác dụng từ đời này sang đời khác, tác dụng duy trì chủng tử, tác dụng kết sinh tương tục…

Cho rằng ở đời không có a la hán là phá hoại việc thiện. Nghiệp dụng của tà kiến là đoạn mất thiện căn, làm sở y cho bất thiện căn thêm kiên cố, khiến cho thiện căn không phát triển, bất thiện căn càng thêm phát triển.

Kiến thủ là gì?

Là cho rằng ba kiến, uẩn sở y, là tối thắng, tối thượng, tối cực. Tự tính của nó làm nhiễm ô tuệ. Ba kiến là tát ca da, biên chấp và tà kiến. Uẩn sở y là, uẩn là chỗ sở y của tất cả các kiến kia.

Nghiệp dụng của kiến thủ giống như tà kiến.

Giới cấm thủ là gì?

Đó là, đối với những giới điều, cấm nguyện và uẩn sở y, tuỳ theo kiến chấp nào đó mà cho rằng đây là thanh tịnh, đây là giải thoát, đây là xuất ly. Tự tính của nó là làm tuệ bị nhiễm ô.

Giới điều ở đây là lấy ác kiến làm đầu. Cấm nguyện tức là giữ những nguyên tắc khổ hạnh giống như trâu, như chó ngưu giới, cẩu giới và tự cạo tóc, chấp giữ ba phần định tuệ của phái số luận…

Những giới điều và cấm nguyện này chẳng phải là cái nhân giải thoát, vậy mà cho rằng đó là đại tự tại, hoặc cho rằng đó là thế chủ và nếu tu tập theo thì có thể đi vào nước, vào lửa…

Thực ra, những việc làm như vậy chẳng phải là cái nhân để sinh lên Cõi Trời, nhưng bọn họ lại cho đó là nhân.

Uẩn sở y tức là, uẩn là sở y của những giới điều và cấm nguyện.

Thanh tịnh là, cho rằng việc thực hành phương tiện này không gián đoạn sẽ đưa tới thanh tịnh.

Giải thoát là, cho rằng việc tu hành này là giải thoát, xuất ly phiền não, xuất ly sinh tử.

Nghiệp dụng của giới cấm thủ là làm sở y cho sự cần khổ vô ích. Cần khổ vô ích là bởi vì nó không có khả năng đạt được sự thoát khổ.

Nghi là gì?

Tự tính của nó là sự do dự, không quyết đoán có hay không đối với Thánh Đế, Tam Bảo... Tác dụng của nó là làm sở y cho thiện pháp không phát sinh. Trong các phiền não, ba phiền não kiến sau cùng và nghi là phân biệt khởi, còn lại câu sinh và phân biệt khởi.

Phẫn là gì?

Đó là sự bậc tức, uất ức trong lòng khi đối diện với cảnh hiện tiền không mang lại lợi ích. Nghiệp dụng của nó là làm sở y cho sự sử dụng dao gậy và tạo điều bạo ác.

Hận là gì?

Tính chất của nó là sự thắt kết oán thù không bỏ do phẫn đi trước. Nghiệp dụng của nó là làm sở y cho bất nhẫn.

Phú là gì?

Đó là sự che dấu tội lỗi. Vì tự tính của nó là sự che dấu tội lỗi nên khi người khác chân chính chỉ dạy cho sám hối thì không thể phát lộ.

Phú là một phần của si. Nghiệp dụng của nó là làm sở y cho sự hối hận và không an ổn.

Não là gì?

Đó là tính xúc phạm, phát sinh la lối bạo trợn, nói lời thô lỗ, hung ác mà đi trước là phẫn và hận, khởi tâm tổn hại người khác.

Nói lời thô lỗ, hung ác là lời nói dữ dằn, hung hiểm nhằm châm chích, hại người, làm cho người ta buồn rầu, khổ não.

Nghiệp dụng của não là làm sở y cho sự không an ổn, đồng thời làm phát sinh cái nghiệp phi phước. Tâm khởi ác gọi là nghiệp.

Tật là gì?

Đó là cái tâm ganh tị đối với sự tốt đẹp của người khác. Vì danh và lợi của mình mà đối với sự tốt đẹp của người khác thì mình không chịu nỗi, sinh tâm đố kị, không vui. Nghiệp dụng của nó là làm sở y cho tự chuốc lấy bậc dọc, buồn rầu, đau khổ.

Xan là gì?

Là cái tính keo kiệt bủn xỉn, trái lại với cái tính rộng rãi, bố thí. Đối với tài sản… sinh tâm tham lam, keo kiệt, mến tiếc nên không thể huệ thí, như vậy là xan. Tâm đam mê, dính mắc vào tất cả các thứ tài vật lợi dưỡng.

Nó là một phần của tham. Tác dụng của nó là làm sở y cho cái tâm không biết đủ. Không biết đủ là do xan lận, tài vật dù không dùng tới cũng tích chứa, cất giữ.

Cuống là gì?

Là cái tính giả dối, nguỵ trá, giả trang Đạo Đức trước mặt người khác. Là một phần của tham. Nghiệp dụng của nó là làm sở y cho tà mạng.

Siểm là gì?

Đó là cái tính cong vạy, dùng phương tiện dối gạt người, bày ra dáng vẻ nhằm che đậy tội ác của mình. Tức là, vì danh và lợi mà nghĩ cách chiếm hữu.

Là một phần của tham và si. Nghiệp dụng của nó là chướng ngại lời giáo hối chân chính. Do siểm khúc, khi có tội, không tự mình thật lòng phát lộ quay đầu sám hối, ngược lại còn không chấp nhận giáo thọ.

Kiêu là gì?

Đó là tính cuồng ngạo, hết sức đam mê, đắm trước đối với thịnh sự của mình, đến nỗi mất hết các thiện căn.

Thịnh sự là sự thành công đối với các pháp hữu lậu. Say mê kiêu ngạo là sự đắm nhiễm, yêu thích, kiêu căng tự phụ. Kiêu là một phần của tham.

Hại là gì?

Đó là sự tổn não đối với chúng sinh. Là một phần của sân. Tổn não tức là dùng dao, gậy… đánh đập, giết hại… nghiệp dụng của nó là gây bức não.

Vô tàm là gì?

Đó là làm việc tội lỗi mà không tự biết hỗ thẹn. Nghiệp dụng của nó là phù trợ cho tất cả phiền não và tuỳ phiền não.

Vô quý là gì?

Đó là làm việc tội lỗi mà không thấy xấu hỗ với người khác. Nghiệp dụng của nó cũng giống như vô tàm.

Hôn trầm là gì?

Đó là tính mông muội, tâm không điều hòa và không kham nhiệm. Là một phần của si. Nghiệp dụng của nó là làm sở y cho tất cả phiền não và tùy phiền não.

Trạo cử là gì?

Đó là sự không tịch tĩnh của tâm do nhớ nghĩ những lạc thú đã từng chứng kiến… tức là, khi nhớ lại những lạc thú đã từng trải qua trước kia thì sinh tâm vui thích, rung động, cười đùa… làm cho tâm không được an tĩnh.

Nó là một phần của tham. Nghiệp dụng của nó là làm chướng ngại thiền định.

Bất tín là gì?

Là ngược lại với tín. Đối với nghiệp, quả… không thật sự tín thuận, tâm không thanh tịnh. Nghiệp dụng của nó là làm sở y cho sự biếng nhác.

Giải đãi là gì?

Là ngược lại với tinh tiến. Đối với các thiện phẩm tâm không mạnh mẽ siêng năng tu hành. Nghiệp dụng của nó là chướng ngại sự tinh tiến tu tập các việc lành.

Phóng dật là gì?

Tự tính của nó là y vào tham, sân, si, giải đãi, đối với các phiền não tâm không phòng hộ, đối với các thiện phẩm không siêng năn tu tập. Nghiệp dụng của nó là làm sở y cho sự tăng trưởng bất thiện, thiện pháp bị thối thất.

Thất niệm là gì?

Đó là tính ghi nhớ những điều nhiễm ô mà đối với các thiện pháp thì không có khả năng ghi nhớ rõ ràng. Ghi nhớ những điều nhiễm ô có nghĩa là nó đi chung với phiền não.

Đối với các thiện pháp không ghi nhớ rõ ràng có nghĩa là đối với lời dạy chân chính của giáo thọ không thể ghi nhớ nghĩa lý để hành trì. Nghiệp dụng của nó là làm sở y cho sự tán loạn.

Tán loạn là gì?

Đó là thành phần của tham, sân, si, khiến cho tâm và tâm pháp lưu tán khắp nơi. Nghiệp dụng của nó là gây chướng ngại ly dục.

Bất chính tri là gì?

Thể tính của nó là tuệ tương ưng với phiền não, nên phát khởi những hành vi bởi thân, khẩu, ý không chân chính. Nghiệp dụng của nó là làm sở y cho sự vi phạm giới luật.

Đối với các việc tới lui v.v… do không được quán sát một cách đúng đắn, mà cũng không có khả năng biết rõ điều gì nên làm hay không nên làm, vì vậy dẫn đến vi phạm luật nghi.

Ác tác là gì?

Tính chất của nó là sự truy hối của tâm. Điều ác đã làm là đáng ghét, gọi là ố tác. Điều ác đã làm này, tự thể của tâm vốn không muốn, nên truy hối. Tức là, do đã làm những điều ác trước đây, sau khởi tâm truy hối, gọi là ác tác.

Tên gọi này là sự giả định theo nhân y cứ trên quả. Như nói, đây là sáu xúc xứ, nên biết, là nghiệp đời trước.

Việc đã làm có hai trường hợp, thiện và bất thiện. Trong mỗi trường hợp lại có hai khả năng xảy ra.

Ví dụ, trong trường hợp thiện, trước đó mình không chịu làm, sau khởi tâm truy hối, đây là cái nhân thiện nên sự truy hối cũng là thiện.

Nhưng cũng trong hợp thiện đó, trước mình đã trót làm điều ác, sau khởi tâm truy hối, thì đây là nhân bất thiện nhưng sự truy hối lại là thiện.

Trong trường hợp bất thiện, trước không làm điều ác, sau khởi tâm truy hối, đây là nhân bất thiện nên sự truy hối cũng bất thiện.

Trong trường hợp bất thiện mà mình làm điều thiện, sau khởi tâm truy hối, đây là nhân thiện mà sự truy hối bất thiện.

Thụy miên là gì?

Đó là sự rũ rượi khiến hoạt động không được tự tại. Không tự tại tức là khiến cho thân và tâm hoạt động không tự tại.

Là thành phần của si. Vì tự tính của nó không tự tại cho nên khiến tâm và tâm pháp cực kỳ muội lược. Nó thông cả ba tính, thiện, bất thiện và vô ký. Nghiệp dụng của nó là làm sở y cho lỗi lầm.

Tầm là gì?

Là sự tầm cầu bằng ý ngôn, là cá biệt của tư và tuệ, khiến tâm phân biệt phần thô tướng. Ý ngôn là ngôn ngữ đàm thoại của ý thức tức là sự thuyết minh ý nghĩa bởi ý.

Nó hoặc nương vào tư, hoặc nương vào tuệ tâm sở mà phát khởi.

Phân biệt thô tướng là như tìm cầu cái tướng thô của cái bình, chiếc áo, cổ xe… nghiệp dụng của nó là làm sở y cho xúc lạc, xúc khổ…

Tứ là gì?

Tự thể của nó cũng là thẩm sát bằng ý ngôn và cũng là cá biệt của tư và huệ tâm sở, khiến cho tâm phân biệt phần tướng vi tế.

Phần tướng vi tế có nghĩa là, như đối với cái bình, chiếc áo… nó phân biệt những tướng vi tế nào tạo thành và không tạo thành…

Hành không tương ưng với tâm là gì?

Là những hành giả lập dựa trên phân vị của sắc, tâm… nó và sắc, tâm không thể thí thiết và không thể xác định là dị tính hay không dị tính.

Nó bao gồm những gì?

Đó là đắc, vô tưởng định, diệt tận định, vô tưởng thiên, mạng căn, chúng đồng phần, sinh, lão, trụ, vô thường, danh thân, cú thân, văn thân, dị sinh tính.

Thế nào là đắc?

Là sự thu hoạch và thành tựu. Có ba loại: chủng tử hành tựu, tự tại thành tựu, hiện hành thành tựu. Tùy theo đó mà ứng dụng.

Vô tưởng định là gì?

Đó là trạng thái thiền định đã thoát ly ô nhiễm đối với thiền thứ ba, nhưng chưa thoát ly ô nhiễm đối với tầng thiền trên, nó tác ý với sự dẫn đầu bởi sự thoát ly tưởng, khiến cho các tâm và tâm pháp vốn không thường xuyên hiện hành bị diệt.

Diệt tận định là gì?

Là trạng thái thiền định đã đoạn trừ nhiễm ô đối với vô sở hữu xứ, từ hữu đỉnh lại tiếp tục tinh tấn vượt lên nữa, do tác ý đình chỉ tưởng dẫn đầu, diệt các tâm và tâm pháp không thường hiện hành và một phần thường trực.

Không thường hiện hành là chỉ cho sáu chuyển thức. Thường hiện hành là chỉ cho A lại da thức và ý nhiễm ô Mạt na thức. Trong đó, dập tắt hoàn toàn sáu chuyển thức và ý nhiễm ô gọi là diệt tận định.

Vô tưởng thiên là gì?

Là kết quả đạt được của công phu tu tập định vô tưởng, sinh vào trời vô tưởng thiên, do diệt trừ các tâm và tâm pháp không thường xuyên hiện hành.

Mạng căn là gì?

Là nghiệp đời trước dẫn dắt an trụ ở nơi chúng đồng phần, khoảng thời gian nó an trụ đó gọi là mạng căn.

Chúng đồng phần là gì?

Là tính chất tương tợ của các quần sinh.

Sinh là gì?

Trong chúng đồng phần, các hành trước vốn không nay hiện hữu, trạng thái hiện hữu đó được nói là sinh.

Già là gì?

Là các hành kia tương tục biến hoại.

Trụ là gì?

Là các hành kia liên tục chuyển dịch.

Vô thường là gì?

Là các hành kia liên tục diệt mất.

Danh thân là gì?

Là biểu đạt tự thể các pháp, như nói mắt,…

Cú thân là gì?

Là biểu đạt sự sai biệt về các pháp, như nói các hành là vô thường…

Văn thân là gì?

Văn là văn tự chữ nghĩa, nó giúp hai bộ phận trước kia biểu đạt rõ ràng, cũng gọi là hiển, tức là làm sở y cho danh thân và cú thân biểu đạt ý nghĩa rõ ràng. Cũng gọi là chữ, nghĩa là không lưu chuyển khác đi.

Hai bộ phận trước kia là danh thân biểu đạt tự tính và cú thân biểu đạt sai biệt. Hiển có nghĩa là biểu hiện rõ ràng.

Dị sinh tính là gì?

Là chưa chứng đắc các phẩm chất của Thánh.

Thức uẩn là gì?

Tự tính của nó là phân biệt cảnh sở duyên. Cũng gọi là tâm, vì nó có khả năng tích tập, thu góp. Cũng gọi là ý, vì nó bao hàm trong ý.

Trong các loại tâm, tâm tối thắng nhất là A lại da thức, vì nó có khả năng thu góp, tích tập mọi chủng tử của các pháp hữu vi.

Hơn nữa, hành tướng của thức A lại da rất khó nhận biết, vì trước sau một loại liên tục chuyển dịch.

Lại nữa, do thức A lại da này mà các chuyển thức liễu biệt cảnh tiếp tục sinh khởi sau khi hành giả ra khỏi diệt tận định, vô tưởng định, vô tưởng thiên, vì các thức này sinh khởi trở lại nhờ vào những sở duyên duyên khác nhau, cho dù đã trả qua nhiều lần gián đoạn mà vẫn tiếp tục sinh khởi trở lại.

Lại nữa, cũng chính thức A lại da khiến cho chúng sinh luân hồi sinh tử, liên tục tiếp nối chìm nổi.

Thức A lại da có khả năng thu góp và cất giữa tất cả mọi chủng tử, thu góp và cất giữ tướng ngã mạn, và chọn thân làm cảnh sở duyên, nên lúc này nó có tên là a đà na thức, vì nó chấp trì thân.

Ý tối thắng nhất là Mạt Na Thức, nó chọn tạng thức làm cảnh sở duyên, và thường tương ưng với ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái, trước sau một loại tương tục tùy chuyển, trừ bậc A La Hán, Thánh Đạo xuất thế và diệt tận định.

Như vậy, sáu chuyển thức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cùng với ý ô nhiễm Mạt Na và A lại da thức, tất cả gồm tám thức, gọi tên là thức uẩn.

Hỏi: Uẩn có nghĩa là gì?

Đáp: Uẩn nghĩa là tích tập. Nghĩa là, nói chung những phẩm loại, thú hướng, xứ sở sai biệt như sắc… tồn tại tương tục trong thế gian, gọi là uẩn.

Ví dụ, Thế Tôn nói: Này các Tỳ kheo, những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc thô, hoặc tế, hoặc thắng, hoặc liệt, hoặc gần, hoặc xa… tất cả những thứ như vậy đều được thu nhiếp thành một uẩn, gọi là sắc uẩn.

Mười hai xứ là nhãn xứ, sắc xứ, nhĩ xứ, thanh xứ, tị xứ, hương xứ, thiệt xứ, vị xứ, thân xứ, xúc xứ, ý xứ, pháp xứ.

Nhãn v.v… gồm năm xứ và sắc, thanh, hương, vị, xúc như đã giải thích trước kia.

Xúc xứ là các đại chủng và một phần của xúc. Ý xứ tức là thức uẩn. Pháp xứ tức là thọ, tưởng, hành uẩn và vô biểu sắc, cùng với các pháp vô vi.

Vô vi là gì?

Là hư không vô vi, phi trạch diệt vô vi, trạch diệt vô vi và chân như.

Hư không là khả năng dung chứa và tiếp nhận các sắc. Phi trạch diệt là diệt không do thoát ly hệ phược.

Không do thoát ly hệ phược phi ly hệ là thế nào?

Là không do đối trị phiền não mà các uẩn rốt cuộc không sinh.

Trạch diệt là gì?

Là diệt do thoát ly hệ phược.

Thoát ly hệ phược là thế nào?

Là đối trị phiền não rồi thì các uẩn hoàn toàn không sinh nữa.

Chân như là gì?

Là pháp tính của các pháp. Pháp tính ấy là vô ngã tính.

Hỏi: Xứ có nghĩa là gì?

Đáp: Xứ có nghĩa là môi trường sinh trưởng của các thức.

Lại nữa, có mười tám giới, đó là nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới, nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới, tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới, thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới, thân giới, xúc giới, thân thức giới, ý giới, pháp giới, ý thức giới.

Sáu căn giới nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý và sáu cảnh giới sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đã trình bày rồi. Nay trình bày sáu thức giới.

Sáu thức giới, tự tính của nó là phân biệt rõ ràng từng thứ dựa trên sáu căn nhãn, nhĩ… duyên với sáu cảnh sắc, thanh…

Ý giới chính là tất cả thức vừa diệt, không gián cách, tức là vì muốn làm sáng tỏ nơi y chỉ của thức thứ sáu và rộng hơn nữa là để kiến lập mười tám giới, nên ý giới được nói đến.

Như vậy, sắc uẩn gồm có mười xứ, mười giới và một phần của pháp xứ, pháp giới. Thức uẩn gồm ý xứ và bảy tâm giới.

Ngoài ra, ba uẩn còn lại và một phần sắc uẩn cùng các pháp vô vi chính là pháp xứ, pháp giới.

Hỏi: Giới có nghĩa là gì?

Đáp: Giới bao hàm các ý nghĩa nhậm trì, vô tác dụng tính, tự tướng.

Hỏi: Vì ý nghĩa gì mà nói uẩn, xứ, giới?

Đáp: Vì để đối trị ba thứ chấp ngã, đó là, để đối trị chấp ngã đồng nhất tính, chấp ngã là thọ, chấp ngã là tác giả chủ tể.

Vấn đề còn lại là, trong mười giới có bao nhiêu giới thuộc sắc?

Bao nhiêu giới không phải sắc?

Có mười giới năm căn, năm cảnh và một phần pháp giới là tự tính của sắc uẩn. Những giới còn lại đều không phải sắc.

Bao nhiêu giới có thể nhìn thấy hữu kiến?

Chỉ có một, đó là sắc giới.

Bao nhiêu giới không thể nhìn thấy vô kiến?

Là những giới còn lại.

Bao nhiêu giới có thể gây chướng ngại hữu đối?

Là mười sắc giới. Chướng ngại tức là khi nó ở vị trí này nó sẽ chiếm một không gian, gây chướng ngại.

Bao nhiêu giới không gây chướng ngại vô đối?

Là những giới còn lại.

Bao nhiêu giới thuộc hữu lậu?

Là mười lăm giới và một phần ít của ba giới sau cùng, vì nó là môi trường của phiền não phát sinh và là môi trường của các hiện hành.

Bao nhiêu giới thuộc vô lậu?

Là phần còn lại của ba giới sau cùng, tức ý giới, pháp giới và ý thức giới.

Bao nhiêu giới hệ thuộc Dục Giới?

Tất cả đều hệ thuộc Dục Giới.

Bao nhiêu giới hệ thuộc Sắc Giới?

Là mười bốn giới, trừ các giới hương, vị, tỷ thức và thiệt thức.

Bao nhiêu giới hệ thuộc Vô Sắc Giới?

Là ba giới sau cùng, gồm ý giới, pháp giới và ý thức giới.

Bao nhiêu giới không hệ thuộc vào ba cõi?

Là những giới vô lậu.

Bao nhiêu giới thuộc về Uẩn?

Trừ vô vi.

Bao nhiêu giới thuộc về Thủ uẩn?

Tất cả những giới hữu lậu.

Bao nhiêu giới thiện?

Bao nhiêu giới bất thiện?

Bao nhiêu giới vô ký?

Có mười giới thông cả ba tính chất, trong đó bảy tâm giới, sắc, thanh và một phần pháp giới là thiện khi liên hệ với vô tham, vô sân, vô si. Là bất thiện khi liên hệ với tham, sân, si. Ngoài ra là vô ký.

Tám giới còn lại thuộc vô ký năm căn, hương, vị và xúc.

Bao nhiêu giới thuộc nội tự thân?

Là mười hai giới, trừ sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp giới.

Bao nhiêu giới thuộc ngoại thân?

Là sáu giới còn lại sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp giới.

Bao nhiêu giới có cảnh sở duyên?

Bảy tâm giới và một phần pháp giới là có đối tượng. Có đối tượng là những pháp mà tự tính là tâm sở.

Bao nhiêu giới không có cảnh sở duyên?

Còn lại mười giới không có sắc và một phần pháp giới mà không tương ưng tâm, là không có đối tượng.

Bao nhiêu giới có phân biệt?

Là ý thức giới, ý giới và một phần pháp giới.

Bao nhiêu giới có chấp thọ?

Là năm nội giới và một phần ít bốn giới, tức là sắc, hương, vị, xúc.

Bao nhiêu giới không chấp thọ?

Chín giới còn lại và phần ít của bốn giới.

Bao nhiêu giới đồng phần?

Là năm giới có sắc bên trong, vì nó đồng đẳng với cảnh giới của tự thức.

Bao nhiêu giới là bỉ đồng phần?

Là thức kia lúc không thực hiện chức năng của nó, nhưng nó vẫn bình đẳng với tự loại.

***